“Bèo dạt mây trôi” là một làn điệu dân ca thuộc vùng Bắc bộ và Thanh Nghệ Tĩnh của Việt Nam, với nội dung thể hiện nỗi nhớ của người con gái/chàng trai đối với người yêu ở phương xa. Ca từ trong bài Bèo dạt mây trôi rất giản dị, gần gũi với nông thôn Việt Nam, sử dụng những hình tượng nghệ thuật như cánh bèo, chim, cá, mây, trăng, gió v.v. tạo ra một khung cảnh nhớ nhung sâu lắng. Cảnh vật nông thôn thời xưa thể hiện rõ nét, không gian và thời gian như nhập vào một, chất trữ tình mạch lạc. Đặc biệt ở nhan đề “Bèo dạt mây trôi” sử dụng một câu tục ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày của nông dân Việt. Tạo ra cho ca khúc một đặc điểm quan trọng đó là dễ đi vào lòng người nghe. https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A8o_d%E…
Lan và Điệp
Ngày Đó Chúng Mình Yêu Nhau
Hải Ơi!
Mùi
Bầy kiến xếp hàng đi ngoằn ngoèo, khoảng cách từ cánh cổng vào nhà không xa lắm, bụi cúc ngai ngái mùi cay. Khung cảnh chung quanh đẹp như huyền thoại, căn nhà nằm ẩn trong khu rừng nhỏ, trước mặt có suối, trên thân cây rêu xanh phủ một bên, bên kia trơ vỏ mốc, hoa dại dưới gốc lay lay ngơ ngác khi gót giầy của kẻ lạ bước kề bên. Bầy kiến bình thản đi theo đoàn bận rộn tíu tít, có lẽ trời chuyển mưa.
Ngập ngừng bên cửa, ngại ngùng hay sợ hãi phải lay động không gian chừng như trốn tránh hiện thực, người khách đứng thừ người đầu hơi cúi xuống nhìn mũi giày phủ đầy bụi đỏ, những hạt bụi lá mục.
– Ông tìm ai!
Người đàn ông quay mặt lại, giọng nói nhẹ nhàng thánh thót, phá vỡ lớp pha lê đông cứng chung quanh trước đó.
– Mùi, em đấy ư?
Run run ông hỏi, người phụ nữ mở tròn đôi mắt, đôi mắt không còn mùa lóe lửa, ánh lửa của niềm bí ẩn riêng tư vừa bị nổ tung.
Mùi là ai? Tên họ hay chỉ là tiếng vang trong tiềm thức, trong quá khứ ngộp ngụa đau đớn giẫy giụa giữa lằn ranh sống – chết, giữa thiện – ác, giữa phải – trái, giữa người và ta, cái ta hiện diện ngay tự thuở lọt lòng.
Khương, tên của người đàn ông, tiến đến một bước, Mùi lui một bước, bước chân tiến – bước chân lùi của một bắt đầu trong quá khứ, trong một đêm tịch lặng. Bước chân lui đến góc tường, bước chân tiến dừng lại, vòng ôm siết chặt, đôi môi khóa, đóa trà mi vừa độ bị lộ lối vào ra.
Mùi sững lại lưng tựa vào gốc thông, không còn lối để bước lùi thêm nữa, thì ngừng, thì nhìn thẳng vào mặt người đối diện, ba mươi năm trốn chạy, lại thấy nhau.
Thìn Tuất Sửu Mùi – tứ hành xung họp lại trong một gia đình. Ngày còn sinh thời ông cụ hay ta thán: “Gia đình người ta tam hợp ngồi duỗi mà ăn, gia đình này xung kỵ chẳng đâu vào với đâu!” Bà cụ hiền lành: “Ý trời thế nào mình thuận theo nhẽ ấy, tích đức sợ gì xung kỵ hão huyền!”
Xung kỵ Thìn với Tuất là hai chị em yêu cùng một người, rồi đau đớn chị chẳng nhường em, em không nhịn chị, người ta bỏ đi, cô Thìn cô Tuất còn mãi lẻ loi, đến xế đời hai chị em ở chung nhà, mặt nhìn mặt lòng chẳng cùng lòng, dấm dẳng cay đắng nhiếc móc vào ra! Giá như mà . . .
Sửu với Mùi, chẳng ai tranh thắng thua, chẳng ai màng ganh ghét, thế mà sợi dây oan nghiệt thít vào xương thịt, máu chẳng đổ chỉ chạy vòng quanh hai quả tim biết nhẽ đời, thu xếp cho nhẹ lòng nhau bằng cách không liên lạc, không nói không hỏi, có gặp chỉ khẽ khàng chào rồi lảng đi nơi khác. Nếu không trong gia đình dòng tộc, nếu chẳng có dáng dấp hình hài giống nhau Sửu và Mùi chỉ là kẻ lạ, dù trước khi có Khương hai chị em khắng khít chẳng rời.
Đổ tội cho Trời già không có mắt, kết oan cho bà Nguyệt ông Tơ làm chi, những con người có tim có óc, có yêu có ghét có giận có hờn, đã tạo thòng lọng chui vào, rồi đau rồi tủi, rồi oán rồi trách, để khổ cho nhau.
– Ông tìm tôi làm gì?
– Mùi vẫn còn giận anh?
– Giận là còn vương vấn, tôi thì không.
KHÔNG thật không? Đã hơn ngàn đêm ngậm nhấm.
Vọng trong đêm
tiếng thở dài nhân duyên lầm lỡ
Hạnh phúc buồn
quạnh hiu khuya trăn trở giấc mê
Sợi tóc xưa
ngậm ngùi vương trên vai người mùa cũ
Bước tình xa
trầm hương phai nhòa nhạt dấu chân về
Ngọn nến thắp
có đủ soi trời thinh lặng?
Rượu tràn ly
có mong khỏa lấp sông sầu?
Tình phụ tình
Người mãi vẫn phụ lòng nhau
Này vực sâu
Đêm
Tôi
Áo xưa nhàu *
Cứ tưởng “tiền dâm hậu thú” mọi sự sẽ hanh thông để trăm năm “sắc cầm hòa hợp”, ngờ đâu Sửu ghìm cương con tạo, cướp sợi tơ hồng, ngày lên tàu vượt biên, Mùi bị bỏ lại trên bãi vắng giờ khởi hành, em chị lạc dấu nhau. Trớ trêu thay, Khương cùng chung chuyến, chuyện âm dương trại tị nạn khó ai lường, gộp chung mái nhà để được định cư, người tình thành anh rể! Khúc phim quay nhanh trong trí óc như bài điếu văn an táng mối tình đầu.
Nhìn đôi mũi giày đàn ông vướng bụi đỏ, mùi mưa ngày cũ, mùi mưa ẩm bây giờ, đôi tay muốn vươn ra ôm lấy, lại thôi!
khi ta nằm trên thảm cỏ khô mùa đông
yêu & kêu gào ngọn lửa mặt trời hồng tháng hạ
những vì sao tuyết rơi
nhắm mắt / không nhìn nhau
lạnh
mảnh trăng non oằn cong vành môi rạn nứt
hơi thở trầm / hư hao
mầm của đất hoang trỗi dưới sống lưng cô tịch
nhọn / bén ngót / lùa đường tay thạch nhũ
phiến đá hoa cương / vai / xây cầu phù lệ
tóc chảy dòng thương ca / xa / thiên cổ chợt về
khi ta nằm trên ngọn cỏ khô mùa đông
yêu! và không chờ đợi *
Ngày gặp lại, sân bay đón nhau, chẳng nhìn! Khương lừng chừng muốn nói điều gì lại thôi, bảo lãnh cho cả gia đình sang Mỹ còn gì quý hóa hơn. Ông bà cụ vui vẻ thấy cả nhà đoàn tụ, mất có mấy chỉ vàng ngày cho Sửu vượt biển, thêm chút ít lót tay công an phường quận, để cả nhà lên máy bay cho nhanh, tất cả như giấc chiêm bao chập chờn thành thật.
Thìn biến thành Thera hoang dã – Tuất trở nên Thora cơn bão của trời. Nghịch ngạo phải dính líu với nhau, mối tình đầu của cả hai đã thành tro thành bụi tự bao giờ, thế mà họ vẫn hí hoáy vẽ vời, vẫn giữ chữ chung – chữ trinh cho kiếp khác có thể thấy lại nhau! Cả hai hay chỉ một!
Sửu biến thành Suha, tên của vì sao Ả Rập – người con gái độc nhất trong nhà có chồng, có hình đám cưới, dù ngày cưới chẳng có mẹ chẳng có cha, chẳng có em, chẳng có chị, vì lúc ấy gia đình còn luẩn quẩn trong căn nhà có giàn hoa giấy làm cổng, có bộ tràng kỷ làm chứng gia đình “danh gia vọng tộc”, chiều nghe tiếng chuông chùa đổ, sáng nghe tiếng chuông nhà thờ ngân, vào ra đi đứng nhẹ nhàng, giấu kín nỗi buồn thanh xuân thầm kín.
Mùi biến thành Munael tia sáng của trăng, khi trồi khi sụt. Ngày nhận hình cưới của chị, chẳng có sông, không thấy biển mà sóng cuồn cuộn trong lòng, đôi môi của chú rể là của Mùi, đôi mắt của chú rể cũng của Mùi, bờ vai rộng, ngón tay thon, nỗi rạo rực yêu thương không loãng đi chỉ nồng như rượu, rượu được nén kỹ, được chôn được ủ, con men tình ngày một sinh sôi, cơn ghen tình ngày một hừng hực. Mùi không còn nghĩ đến vượt biển nữa, sau lần cả nhóm bị bỏ lại, lếch thếch tìm đường về Sài-gòn từ Rạch Giá, may mà không bị bắt.
Sang Mỹ, người đầu tiên rời khỏi căn chung cư là Mùi, vì không thể chấp nhận mỗi ngày mỗi gặp mặt, khi Khương ghé gởi con cho bà ngoại và các dì. Đi không trở lại, đi để giết nỗi cô độc đêm, đi để thành Munael De Leon, để khởi loạn, để có con để xóa để bôi những sắc màu u tối quá khứ. Cha Mẹ trăm tuổi trở về chịu tang vội vã, tất tưởi rồi đi, nhất định cắt cầu, nhất định không dùng dằng, dù có nhiều lần Khương tìm dịp mở lời, Mùi đã gạt ngang rồi lẩn tránh.
Đời cứ trôi, những nhớ nhung nhập nhòa trong bóng đêm, đôi mắt xanh thành đôi mắt đen, bờ lưng dầy chắc nịch, nhớ tấm lưng gầy gò lần đầu, ngây ngô vượt ranh giới để trở thành thiếu phụ. Chẳng khó gì để ngoại tình tư tưởng, người phụ nữ Á Đông khép kín, nhẹ bước vào ra như con búp bê bằng sứ, chăm sóc chồng cho đến lúc chồng chẳng còn hiện diện trên thế gian, hầu hạ con cho đến lúc chúng chẳng còn cần mẹ, ngôi nhà xinh xắn nhỏ nhắn giữa cánh rừng là món quà Joe De Leon tặng vợ, kỷ niệm hai mươi lăm năm thành hôn, cũng là thành hôn, chưa đến nửa giờ đồng hồ trong tòa án thành phố, có ông chánh án râu quai nón, có một người làm chứng, cùng ký vào sổ bộ, để có tờ giấy hôn thú là xong, chẳng gia đình hai bên, chẳng hình chẳng ảnh. Ngôi nhà để nghỉ ngơi sau những ngày đi làm mệt mỏi, trở thành am thất cho Mùi sau khi Joe bị tai nạn mất đi, nàng về ở hẳn xa lánh mọi người.
– Mùi không mời anh vào nhà ư?
– Vào làm gì nữa, anh về đi!
– Sửu đã mất hơn năm rồi, Mùi không biết tin ư?
– Mất thì sao, còn thì sao!
– Anh xin lỗi!
– Lỗi gì?
– Lỗi hẹn với em. Anh không thể nào làm khác đi được, chuyến tàu gặp sự dữ, Sửu gặp sự dữ, chỉ một anh là nơi Sửu tựa nương, em không cho anh điều kiện để nói cho em biết, đến bây giờ . . .
Khương nói không thở, Mùi nghe không thở, ngực trĩu nặng, mắt hoa đất trời chao đảo! Chị Sửu ơi nỗi đau đớn dày vò ai đau hơn ai?
Trời bắt đầu lắc rắc hạt mưa, Khương vẫn đứng trước Mùi, nàng đang ôm mặt nức nở khóc!
Sáu mươi năm cuộc đời có đủ để hiểu hết lẽ được mất – có đủ để thấy hết nỗi đớn đau, có thật rằng tứ hành xung khắc, hay tại con người không chịu mở lòng ra. Yêu và Chấp./.
* Thơ: Phù Dung
Ấu Tím 2014
Xuân Ngọt
Gần đến Tết, dù dặn lòng thôi không nhớ – không ngậm ngùi – không để kỷ niệm ngày xưa kéo về làm lòng chùng buồn thiu thỉu nữa mà rồi vẫn bị hình ảnh thanh xuân ám ảnh, những đóa hoa – những luồng gió xuân quấn quít tà áo mỏng, hơi lạnh nhè nhẹ lay lá cành, mơn đôi má làn môi cùng bao ước mộng tưởng chừng giơ tay vói đến.
Những ngày cận Tết xôn xao, cô thợ may áo dài than không có giờ để ngủ, ông thợ đóng giầy xin khất đến ngày đưa ông Táo về trời, chiếc xe đạp được sơn lại màu hoa hiên có chút kim nhũ lóng lánh, bao nhiêu tiền ky cóp từ những phần quà sáng nhịn không ăn, để giành chơi hụi cùng đám bạn cùng lớp được dùng cho những việc đơn giản ấy, trong trí đã tính nhẩm những phong bao lì xì từ ông bà và bố mẹ sẽ nhiều hơn gấp bội. Mùa Xuân thanh bình của các cô gái thành thị không biết lửa khói chiến tranh.
Tết đồng nghĩa với bánh chưng xanh dưa hấu đỏ, đồng nghĩa với mứt ngọt hạt dưa bùi, bao nhiêu hoa trái tốt tươi ngày Tết cùng bao nhiêu điều cấm kỵ kiêng khem để mong cầu một năm mới sáng lạng hơn năm cũ, vui hơn hạnh phúc hơn. Đầu năm không ăn vị đắng cay, không uống nước lã, bếp lò được lau chùi sạch chờ ông Táo trở về, trong thời gian này nhiều nhà yên ắng không nấu nướng. Người nhóm bếp đầu năm là bà là mẹ, những người giữ tay hòm chìa khóa tính toán chi tiêu chợ búa cho gia đình.
Trước khi ông Táo về trời, thời tiết thường hưng hửng nắng, nắng không rực lửa nắng đủ mênh mang làm hồng đôi má, gió cũng vừa lay động đôi tà, thời tiết của phơi kiệu làm dưa, phơi đủ mọi thứ sên mứt, thông thường là khoai bí gừng dừa các vật liệu này rẻ vì nhiều và dễ làm.
Những chiếc mâm nho nhỏ có màu hồng đỏ là khoai, mâm phơi bí màu trắng, hơi ngả vàng là gừng, dừa thì được pha chế đủ màu cho đẹp .
Dừa rám mua đủ đôi về gọt sạch lụa nâu, chỉ giữ phần thịt trắng ngọc ngà, bào thật mỏng tránh bị đứt giữa chừng, sợi dừa càng dài càng khéo. Bà truyền cho mẹ, mẹ truyền xuống con gái nguyên tắc dễ dàng để làm mứt ngày Tết. Gọt rửa cho sạch, nhúng vôi cho cứng, nhúng phèn cho giòn, trụng cho tái (chín nửa chừng), vắt cho khô, phơi cho héo, ngâm với đường tỉ lệ tương đương: một – một cho các trái có vị chua, một – hai phần ba cho trái có vị trung, một – một nửa cho củ hay dừa, cứ thế mà các cô con gái thi nhau làm khéo, thi nhau pha màu thi nhau làm mứt cho các loại trái lạ, khó hơn nữa như mứt chanh, mứt tắc, mứt me, mứt khổ qua, mứt cà chua, mứt mận Đà Lạt.
Thuở ấy mỗi năm được làm mứt một lần, chẳng ai cần học thiền học yoga để tịnh tâm tịnh trí, chỉ cần làm một thố mứt tắc, một keo mứt mận, một hũ to mứt me là tâm nào cũng bình an, nỗi buồn nào cũng vơi khi ngồi gọt vỏ.
Lần học làm mứt tắt đầu tiên với chị Vượng là lần chị bị mẹ bắt phải dứt khoát cắt đứt với anh Nguyên, người láng giềng nhà xéo một căn thôi đối diện với nhà chị, anh có tật ở tay trái nên không phải đi lính. Chị xõa tóc ngồi tựa lưng vào khung cửa bếp, chiếc rổ trước mặt đầy trái tắc xanh tròn trịa, trái lớn nhất bằng ngón chân cái, tay chị mân mê dùng chiếc dao cau của bác, gọt thật mỏng để còn lại phần vỏ trắng bên trong, sau đó tỉ mỉ dùng đầu đũa lấy hết hột bên trong ra cùng lúc vắt nước chua mà không làm trái bị rách, vừa làm chị vừa âm ư hát, có lúc nước mắt ứa ra, chữa thẹn với tôi vì nước chua bắn vào mắt. Làm con gái ngày xưa bị ép uổng trăm bề, cứ ngỡ làm mứt tắt xong chị sẽ quên anh Nguyên, ai ngờ chị âm thầm sang ở hẳn nhà anh, vì gia đình của anh không có con gái, mẹ anh Nguyên yêu chị vô cùng, chị vừa đẹp vừa khéo vừa giỏi vừa ngoan (!), con gái thời ấy có tú tài đi dạy học hiếm hoi lắm. Thế là đám cưới phải có, chẳng lẽ để mất con gái không có khay cau mâm trầu? Sau ngày cưới hai bà thông gia chẳng có nhiều thì giờ để giận hờn nhau lâu, vì phải lo việc xếp ổ cho chị và sau đó mải tranh nhau trông cháu.
Làm mứt mận Đà Lạt không cần gọt vỏ, nhưng phải dùng dao khứa từng khứa thật mỏng đối xứng nhau qua chiếc hạt cứng, là lần học cách làm với bác Mận, người sinh con năm một từ ngày bị gả đi lấy chồng. Vị chua chát của mận Đà Lạt trại hầm không hiểu sao lại được các cô nữ sinh thích thú, hình dạng trái mận dễ thương có một khứa như dấu ngón tay bấm vào, cắt xong phải ngâm nước muối, nước vôi, nấu lại với phèn để thật khô mới ngâm với đường, sau đó sên đường cho đến khi trái trở màu đỏ hồng, để ra khay phơi cho ráo, vị chua vị chát biến mất chỉ còn vị ngọt sần sật của trái đã được các chất vôi chất phèn tác dụng. Cái khăn dạ choàng đầu bộ quần áo nâu, không gian xám trong gian nhà gỗ, mùi chè mùi hoa quì, hoa sói chung quanh thêm mùi đường ngọt, tiếng nổ của than ti tách trong chiếc lò be bé thường là để xấy chè, tiếng con nít chí chóe chung quanh, bác Mận lâu lâu lại phải đứng lên giàn xếp cho êm, bụng của bác đã to vượt mặt. Cả làng cả trại gia đình nào cũng thế, nhiều nhất đến cả chục, ít nhất cũng ba bốn, không có con đông là bị chê nhà không có phúc. Phần chan chát của cuộc đời theo với xã hội chả bà nào nếm thấy, chỉ còn vị ngọt gia đình phúc đức nên có đông con.
Đến khi học làm mứt me kinh khủng hơn, phải cạo cho hết lớp phấn chua bên ngoài luộc sơ ngâm muối cho trái nở bóc vỏ khều bỏ hạt, mười đầu ngón tay héo queo quắt vì ngâm nước muối pha phèn. Ôi chao làm mứt me với bà đang ghen chồng, vừa bóc vỏ vừa rên rỉ kể lể chuyện phải rình rập từng giờ đi giờ về, phải cân đo từng lời chê bai mình nhận, lời âu yếm bị mất, xét nét từng cử chỉ ngày xưa phong thái bây giờ của chồng, mùi me chua cùng câu chuyện ghen tương hơn giận khiến đến bây giờ vẫn còn nhớ đến, vì khi vừa làm sạch xong thau me thì ông chồng về, ông giúp bà xóc me cho ráo, hỏi có cần ông phụ trụng me không? Thay vì trả lời có hay không, bà trả lời giấm giẳng nghi ngờ hẳn ông vừa hẹn hò với ai trở về nhà chăng, dù đang có bạn trong nhà. Người chồng cười trừ đùa cợt: “Ấy hẳn em yêu quá đấy mà, củi mục như anh ai thèm mà ghen em ơi!” Cứ chua chua ghen ghen như thế không biết có giết dần hạnh phúc gia đình không, mà năm nào muốn có mứt me là đến thăm nhà ấy, vị chua ngọt cũng lắm người nghiện ngập.
Loại mứt kỳ lạ nhất là mứt trái khổ qua, ép trái có vị đắng thành vị ngọt là một kỳ công, kỳ công giống như chuyển đau khổ thành nguồn hạnh phúc, công thức làm mứt này học được từ một ni cô tu tại gia, triết lý cô dùng đơn giản lắm, để thời gian giúp chất đắng nguôi ngoai, sau đó tẩm đường vào cũng để thời gian tác động vào nó, cùng lúc khéo léo chắt cho hết vị đắng bỏ đi mà không làm bầm dập hình dạng đẹp đẽ của trái. Cô dặn dò muốn làm mứt này phải lựa mua trái nho nhỏ, màu trắng gai nở to, đừng mua trái gai nhọn màu xanh lè khó mà đổi vị. Ai ngờ ngay cả cây trái cũng được ngắm dung nhan để đo lòng dạ, dung nhan xởi lởi lòng dạ không rắc rối “đắng chằng”
Những hoài niệm xa vời ấy chỉ làm đậm thêm những nét đổi thay, Tết bây giờ chỉ còn lại những chữ Xuân trên trang báo hiếm người mê mẩn đọc, trong các hội chợ ngày càng vắng khách du xuân, thơ xuân không còn ý nhiều để so vần khẩy vận, chuyện ngày xuân chẳng còn bao hớn hở tình xuân. Thời gian vụt biến, những đổi thay chóng mặt, thuở nào khách đến nhà chơi phải chạy ra đề pô mua hai chai xá xị con cọp cùng một cục đá chạy vội về nhà, sợ đá tan chảy mất, bây giờ nghe dặn dò nhau đừng uống nhiều loại nước có ga đó nữa, toàn là đường độc địa. Sợ hãi chất đường thì còn đâu hứng thú truyền cho con cho cháu những món mứt cầu kỳ ngày Tết xưa ngày Xuân cũ.
Theo chu trình thay đổi toàn cầu, nhớ ngày nào con người vào rừng tìm lá cây làm thức ăn, làm thuốc chữa bệnh, tiến lên thành công nghệ hóa thực phẩm dùng phân bón trồng tỉa cho ra thật nhiều thành phẩm để cung phụng cho loài người, điện khí hóa, công nghiệp hóa, nay thì bao nhiêu hội bao nhiêu nhóm kêu gọi trở về nguyên khai organic, từ thức ăn đến vải vóc. Từ vải tám thô nhuộm bằng trái bồ hòn, được mặc ny lông – tê ta rông một ngàn, một ngàn rưởi đến sa teng sợi hóa học, nay lại quay về tơ tằm bông vải, sẽ đến lúc con người thực hiện hoàn hảo điều này, hoàn toàn quay về nguyên thủy uống nước lã không ga, ăn rau tự trồng tự kiếm, không đường muối bột ngọt, mặc quần áo bằng sợi gai, bông vải, tơ tằm.
Muốn trở lại thuở hí hửng áo dài ny lông kim tuyến, mứt ngọt có phèn chua hàn the, hẳn phải chờ đến chu kỳ mới, chu kỳ ấy chẳng còn người nào biết làm các loại mứt chua chát đắng cay ấy nữa, thì con người thời ấy sẽ lại tự nghĩ ra loại mứt khác lo gì?

