Dài Tựa Thiên Thu

Buổi sáng trong viện dưỡng lão ồn ào tiếng bước chân, tiếng bánh xe đẩy nghiến xuống nền thảm cũ phát ra tiếng cót két khô dầu – ngày mới bắt đầu.

Không như ngày của thiên hạ, ngày bắt đầu bằng tiếng chim ríu rít, tiếng mở cửa khẽ khàng, bước chân nhón gót sợ đánh thức người còn ngủ nướng.  Ngày nơi đây dường như không tận, ánh đèn neón sáng choang, lúc nào cũng có người tỉnh thức đôi khi tiếng bíp báo động vang lên, tiếng chân lại vội vã bước đến nơi phát ra âm thanh chối tai ấy, để tắt nó đi.

Giọng thét của ông John mỗi bốn tiếng chẳng kể ngày hay đêm, đồng hồ sinh học trong ông bị đánh thức bởi điều gì – ẩm ướt hay đói khát để bật thành tiếng thét vang vang như thế, lâu ngày ai cũng quen ngay cả đợi chờ được nghe tiếng thét, để biết John còn khỏe.  Có lần sau hai ngày không nghe giọng thét của John, không gian trống vắng kinh khiếp, Pinky bảo John đang điều trị trong nhà thương, bao nhiêu người đợi chờ John xuất viện trở lại, dù biết sẽ bị nghe John thét mỗi bốn tiếng. Giọng thét của John buồn thiu buồn thỉu, giữa âm a và ơ. Mỗi lần thét lên như thế John muốn trút điều gì ra khỏi tâm hồn, giẫy giụa bất lực, nghẹn ngào níu kéo, có lẽ thế nhỉ!

Ông Tâm quay đầu nhìn qua khuôn cửa có ánh sáng bên ngoài hắt vào, hai luồng ánh sáng đụng nhau, ánh đèn chạm ánh nắng nháng nháng, đây là điều để mắt ông nhận ra ngày còn hiện hữu. Ban đêm ánh đèn xuyên thẳng vào bóng tối mắt ông không thấy vệt nháng nháng chạm nhau ấy.

Maggie bước vào phòng, quay đầu giường của ông lên cao, hạ tay vịn bên giường xuống, mỉm cười hỏi ông ngủ ngon không? Ông chẳng buồn nhíu mày  hay nhếc mép, khi người ta nói chuyện với ông mà không gọi đúng tên cúng cơm của ông! Tom là ai, không phải ông.  Cứ thế Maggie làm cho xong nhiệm vụ, thay quần áo cho ông, những bộ quần áo ông đã xếp sẵn tử tế, quần nào vào với áo nào, những chiếc cà vạt tiệp cùng màu áo. Người ta bảo quần áo không làm nên nhà tu, nhưng với ông quần áo bây giờ quan trọng lắm, nó giúp ông che được bộ xương cách trí khẳng khiu, vả lại ông chỉ còn mỗi thú vui ngắm nhìn màu sắc tươm tất phản chiếu con người của ông trong tấm gương to được trang trí ngay phòng khánh tiết, căn phòng được trưng bầy vén khéo làm người ta nghĩ đến căn nhà có bàn tay phụ nữ chăm sóc mỗi ngày. Thì ở đây có bao nhiêu là phụ nữ ra vào, ông chẳng cần nhớ nhiều những tên gọi xa lạ, chỉ nhớ dăm ba người trực tiếp đụng chạm vào thịt da của ông. Cô y tá mặt khó đăm đăm tên Eva, chẳng buồn nhếch mép cười theo bài bản được dậy trong trường, bà bác sĩ tên Katja thỉnh thoảng chợt hiện chợt biến như bóng ma, trong chiếc áo choàng trắng chểnh mảng chẳng màng cài khuy.

Các cô điều dưỡng bắt ông phải đứng lên, hai tay bám vào dụng cụ có bánh xe để tự bước đi, cho dù ông thích  ngồi ì trong chiếc xe lăn chán ngắt, ông chẳng cần nhớ ai vào với ai, ngay cả vài anh chàng vạm vỡ vui vẻ nói cười với ông, khi bắt ông tập các động tác thể dục, những người này chẳng đọc được ý ông muốn bảo họ, người ta chỉ chăm chút cho các bắp thịt khi họ còn cần dùng đến nó, ông đã chẳng cần thì có tập tành chỉ mất công mất lênh, chẳng bõ bèn gì, ngay đến các bữa ăn cũng thế, Pinky ép ông phải ăn cho xong, nếu không khay thức ăn cứ nằm ì trước mũi, mùi bơ mùi nui xộc vào khứu giác buồn nôn, ông phải nuốt ực cho nhanh để cô nàng dọn đi cho khuất mũi.

Vào ngày cuối tuần, thay cho chiếc cà vạt chứng minh ông là người lịch lãm biết thắt đúng cách, có cái khuyết sâu nằm giữa hình tam giác đều đặn, Pinky gài vào cổ ông chiếc nơ đỏm đáng, màu sắc quái gở không phải kiểu ông muốn kèm theo lời chòng ghẹo: “Tom có hẹn với bạn gái hôm nay đó nhé, nhớ hôn cô ả thật kêu vào!” vừa nói cô nàng vừa hôn chụt lên má của ông, cái hôn kiểu hôn thằng bé trai mũm mĩm, cả Maggie lẫn Pinky đều nghĩ ông không biết nói, chẳng biết nghe ngôn ngữ líu ríu của họ, nên họ tha hồ nói đùa với nhau, những câu đùa đôi lúc cợt nhả, nhưng nếu không có nó hẳn chẳng thể nào họ làm việc lâu ở đây được.

Maggie lúc nào cũng mặc chiếc quần thật bó, đi đôi giầy cổ cao màu đen bóng loáng, cho dù mùa đông hay mùa hạ, chiếc áo dành cho các cô y tá – y công in màu sặc sỡ cùng một kiểu cổ chữ V giống nhau, ngay cả bác sĩ đôi khi cũng dùng loại quần áo như thế để sau ngày làm việc họ trút nó xuống bỏ vào thùng giặt,  có công ty giặt ủi đến lấy, sát trùng rồi treo lại vào tủ. Pinky già dặn hơn, mặc quần áo thong thả rộng rãi, chẳng cần khoe các đường cong không còn săn cứng nữa. Mỗi khi giúp ông đứng dậy từ chiếc xe lăn, cô sọc thẳng đầu gối vào giữa háng, sau khi đặt hai cánh tay của ông bám ngang vòng eo núc ních, rồi luồn tay xuống hai bên nách xốc ông lên. Giọng cô vui vẻ pha trộn âm thanh Tây Ban Nha nghèn nghẹt trong mũi: “Tom, đứng thẳng lên nào, ngày xưa với tư thế này, ông ăn thịt bao nhiêu phụ nữ rồi!” Xong câu nói cô hít hơi dài mang ông thẳng sang chiếc giường đơn loại giường đặc biệt dành cho người cần sự chăm sóc, cũng đặc biệt.

Pinky đẩy ông ra ngoài sân phơi nắng, cô nàng cứ nghĩ 70 – 72 độ F là ấm, đối với ông Tâm, người được sinh ra từ miền nam vùng nhiệt đới nhiều độ ẩm, sáu tháng trời mưa sáu tháng trời nắng nhiệt độ trung bình trên dưới 32 độ C, thì nó lạnh thấu xương, nhất là ông chẳng còn lớp mỡ nào bao bọc, chỉ còn bộ da mỏng mốc cời.

Bên cạnh ông, người đàn bà tóc bạch kim rên rỉ: “Let me go home, please!” đầu bà gục xuống gần ngực, âm thanh phát ra từ cuống họng lập đi lập lại như chiếc dĩa nhạc bị hư dừng lại ngay điệp khúc: làm ơn cho tôi về nhà – làm ơn cho tôi về nhà – làm ơn cho tôi về nhà – chữ làm ơn phát ra không rõ mất hẳn âm đầu, nghe thành câu chú vãng sanh:  Nam mô a di đa bà dạ, Ða tha dà đa dạ, Ða địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha.

Người đàn bà này lâu lâu lại tự mần mò cởi bỏ quần áo, cho dù Pinky đã mặc cho bà loại áo thun dài tay thay cho loại áo gài khuy trước ngực. Đôi tay bắt chéo nắm lai áo tốc lên cao che hẳn khuôn mặt, khoe bộ ngực trần có hai túi da chùng bị hai núm nhàu màu đen như hai quả sung khô kéo chảy dài xuống bụng, ngày xưa bộ ngực ấy hẳn đã bao lần khêu gợi thỗn thện trong làn lụa mỏng, trước mắt ông bây giờ chỉ còn có thế cùng câu chú: “Làm ơn cho tôi về nhà!”

Cởi áo không xong, đôi tay bà lại lần xuống cạp quần, sức tàn chẳng còn bao nhiêu lại bị chiếc xe lăn chật chội cản trở, chiếc quần tuột xuống nhiều lắm cũng chỉ qua được nửa mông, dù bà đã xoay bên này trở bên kia, khoe ra cái tã màu trắng, không là chiếc quần lót loại ren mỏng đắt có công dụng mơn trớn làn da và rù quến đôi mắt ngắm. Chẳng hiểu tại sao làm ông nghĩ đến cái áo túi cái quần lót bằng vải thô khâu tay màu cháo lòng, có cái vá chằng vá đụp và hình ảnh bà nội bà ngoại bà mẹ của ông, hình ảnh những người phụ nữ ông còn ghi đậm rõ nét trong trí nhớ.

Cứ thế bao nhiêu lần rồi, người đàn bà có mái tóc bạch kim,  chưa thỏa mãn được gì đã lại bị Maggie hay Pinky  kéo quần áo lại cho thẳng thớm, cùng câu dặn dò: “Thoát y như thế xấu lắm, nhất là trước mặt đàn ông!” cùng lúc cô nàng nhìn ông nheo một mắt kiểu đá lông mi  làm duyên.  Ông phóng ánh mắt chán nản vô hồn nhìn như thể Maggie đang thoát y trước mặt, và nghĩ: “Thoát y như thế xấu lắm, nhất là trước mặt người đàn ông đã bất lực!”

Khi còn khỏe mạnh có lẽ chẳng ai chịu tin rằng, có một nơi con người tụ lại sống dật dờ vất vưởng như thế này. Ông Tâm còn nhớ hình ảnh ông nội của ông, những ngày già cỗi vào ra chậm chạp trong căn nhà ngói ba gian, buổi sáng tĩnh lặng bên tách trà bốc khói chị Sen châm sẵn, bộ quần áo lụa trắng lụng thụng bao bọc bộ xương gầy gò, con cháu sống chung quanh, bố của ông ngày ngày mời cơm, cô của ông bữa bữa bưng thuốc, thuở ấy ông thích thú khi được nằm dài dưới chiếc hòm thửa sẵn để dành, chờ ngày ông nội trăm tuổi.

Nhất nhật tại tù – thiên thu tại ngoại, ngục tù ngày cuối đời không phải là những song sắt cứng ngắt khó bẻ gẫy, nó là những bắp thịt nhão nhoét không chịu làm việc, nếu cùng lúc cái đầu nặng vài ký lô chứa đám óc chằng chịt những dây thần kinh cũng chùng cũng mục thì chẳng nói ra chi, đằng này trí óc của ông Tâm lại sáng choang xét nét ngắm nhìn từng phân vuông số phận con người.

Nơi đây, không cần lịch sự để đối xử với nhau, có bao nhiêu người còn biết xấu hổ, bao nhiêu người còn có thể nâng đỡ người khác? Dưới sự cai trị của bác sĩ – y tá – y công – điều dưỡng, vũ khí của họ là những thuốc viên thuốc nước, là kim là ống nghe, là sáng bát cháo vữa, trưa chén súp nhạt, chiều tô nui mềm.  Muốn thoát khỏi ngục tù này chẳng có tờ giấy tha nào khác ngoài tờ giấy có chữ ký của bà bác sĩ tên Katja chứng nhận không còn hơi thở, không còn mạch đập.

Lại bắt đầu một ngày dài, lâu tựa thiên thu.
 

Nhà Yêu

Cô bạn đã khuất của tôi gọi thế! Nhà Yêu, chẻ chữ nghĩa thì thương với yêu có gì khác nhỉ? Thương nhẹ hơn Yêu chăng?

Lại còn lẽ khác:

– Thương “thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu” vấn vương hơn tồn tại hơn! Thương giữa hai người khác phái thường bị “giấu đó để dành” lâu lâu nhớ cho vui, tới gần chạm “đất” vẫn nhắc đến Cô hàng xóm hay Anh trưởng lớp ngày thơ! Biết tên cô ấy anh ấy còn may, có khi chẳng biết họ tên gì mà vẫn Thương để nhớ.

– Yêu “bạo phát bạo tàn”, sôi nổi vội vàng, có đó mất đó, một núi cũng trèo – hai núi cũng trèo – ba bốn núi cũng nhất định qua cho bằng được để rước – mang – vác về nhà làm của riêng! Bị cấm cản thì “làm mưa làm gió – vật mình vã mẩy” sao cho phụ mẫu phải chịu bề “áo mặc qua đầu” gả phức cho khuất mắt.

Gọi Nhà Thương – Hospital – Bệnh Viện thành Nhà Yêu, hẳn cô bạn dễ thương của tôi dù biết sắp xa cuộc đời nhiễu nhương, vẫn níu kéo “Yêu cái trần gian lắm điên dại” này.

Đọc tiếp “Nhà Yêu”

Chẳng Thà Se Cát Mà Vui!

 

Người ta không cần tìm về kỷ niệm, kỷ niệm tự nó đi tìm người đã có. Kỷ niệm đôi khi đi cùng oan trái.

Như tôi, không bao giờ thèm nhớ hay nghĩ đến nó, tự dưng nó lù lù xuất hiện, ngay ban ngày ban mặt, ngay phố chợ đông người, nó xồng xộc đứng sừng sững trước mặt và cười với tôi. Nụ cười trắng xóa sóng biển.

Phải mất vài giây sửng sốt đôi môi mấp máy của tôi mới bật lên thành tiếng: “Hiếu hả?” Vòng tay đã ôm chầm lấy tôi ghì chặt. Tôi cựa mình thoát ra, đôi mắt tha thiết, giọng trầm, kêu tên tôi như tiếng vọng từ đáy âm ti: “Cún ơi!”.

Đọc tiếp “Chẳng Thà Se Cát Mà Vui!”

Lẩn Thẩn Chuyện Ngày Mai!

 

Tôi không dám khẳng định ngày mai bạn hay tôi sẽ trúng số, nhưng chắc chắn một điều trong tương lai tôi và bạn sẽ già. Câu đầu môi Sinh – Lão – Bệnh – Tử nghe như đùa mà có thật: Khi được sinh ra, không ai có thể lựa chọn được lúc nào, thì Lão Bệnh Tử có đến cũng chẳng thể từ chối. Tôi thắc mắc giữa khoảng Sinh và Lão – Bệnh – Tử là cái gì tại sao không thấy nhắc đến. Hay tại trong khoảng đó tôi hay bạn có quyền quyết định có quyền chọn lựa để đến lúc Lão Bệnh Tử có những phận số khác nhau. Sống luyện tội, ăn năn tội trước khi chết hay thanh thoả hồn xác rũ áo ra đi, chuyện kèn trống tiễn đưa không cần thắc mắc như nhạc sĩ Vũ Thành An:“triệu người quen có mấy người thân khi lìa trần có mấy người đưa?”
Cô bạn gởi thơ viết vài điều về tương lai sẽ thế nào khi về già, những đau tay đau cổ đau lưng, những mệt mỏi uể oải khi sáng phải thức đậy đi làm, khi về nhà không còn sức đế càm ràm chồng con, ngày trước xông xáo dọn dẹp nay có hơi bề bộn chút cũng không sao, sức lực nào còn mà chinh đông dẹp bắc, dọn phòng khách dẹp phòng ngủ, chùi rửa phòng tắm phòng ăn? Cuối tuần chợ búa? Màn hình máy vi tính cũng hấp dẫn muốn viết ba điều bốn chuyện, bàn tay làm biếng, ý tưởng cũng chẳng còn nhạy bén quên nhớ nhập nhằng.

Đọc một đoạn văn, tìm một đoạn thơ, ngơ ngác hỏi sao người yêu đời thế. Thời đại vi tính mọi thứ chuyển đổi rất nhanh rất nhậy, nên con người cũng theo đúng qui luật nhanh nhậy này mà thành mau già. Kỹ thuật, khoa học nhờ vào nhanh nhậy kiếm tiền không ít để chạy theo cái nhanh cái nhậy và ngay cả cái già. Máy vi tính mỗi ngày thay đổi theo cấp số nhân – nhân – nhân.

Con người dùng hết sức lực suy nghĩ tìm tòi sản xuất cái mới, chất xám tuôn ra mất đi cùng với thanh xuân cũng theo cấp số ấy. Từ tiểu học đã mệt nhọc chen lấn tìm cách vào trường giỏi trường hay, lớn lên tí nữa mùa hè cha mẹ khổ sở gởi vào học luyện thi toán luyện thi văn, mong các con được vào trường nổi tiếng, lấy được mảnh bằng ra trường để đi làm đầu bù tóc rối tranh đấu với người ta, điều mong mỏi là làm hết sức để dành tiền và về hưu sớm, khi ấy sẽ đi chơi.
Đọc tiếp “Lẩn Thẩn Chuyện Ngày Mai!”

Mùa Khai Trường

 

“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.”

Đoạn văn đẹp Tôi Đi Học của nhà văn Thanh Tịnh, không ai là không nhớ , nhớ thuở mẹ nắm tay đưa đi học, nhớ thuở sợ hãi cổng trường lần đầu tiên bước vào , nhớ nỗi lo lắng khi nhìn thầy cô lần đầu tiên biết mặt và nỗi kinh khủng khi nhìn mẹ quay lưng đi khuất, còn lại một mình giữa không gian lạ, và bao đôi con mắt không quen. Nỗi “hoang mang” kết tụ từ bao điều ấy. Trường học bắt đầu là mùa thu lại mơn man về, những chiếc lá đã bắt đầu rơi.

Tự tình Hoài Cổ Đại Hội Champa 2007

Hoài Cổ Bước tới đèo ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá, đá chen hoa Loanh quanh dưới núi tiều vài chú Lác đác ven sông chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Đau lòng mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta.

Bỗng dưng cả bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan hiện ra trong óc tôi một cách nhẹ nhàng thông suốt, trên đường về nhà, sau khi tham dự ngày Đại Hội Champa 2007 được tổ chức vào hai ngày 7 và 8 tháng 7 năm 2007 tại Le Petit Trianon Theatre, trên đường số 5 thành phố San Jose. Tôi biết có đại hội này không qua báo chí, mà qua diễn đàn của các anh Trần Lục. Lâu nay việc gia đình giữ chân tôi ở nhà nhiều hơn ra phố để dự hội. Tôi tò mò khi đọc “Đại Hội Champa 2007 – Vấn đề văn hóa xã hội Champa 175 năm sau khi vương quốc này bị xóa bỏ trên bản đồ (1832-2007).” (Conference on Champa 2007 – Socio-cultural Issues of Champa 175 years arter its disappearance 1832-2007) Nhất là qua những câu chuyện trà dư tửu hậu, người ta hay kháo với nhau về chế độ mẫu hệ của dân tộc Chàm.

Đọc tiếp “Tự tình Hoài Cổ Đại Hội Champa 2007”

Luyến

Không nhớ thì bảo là quên
mà nhớ thì lại đau đầu là sao?
Hôm nay đã là ngày 23 tháng 4  nửa thế kỷ rồi còn gì – nhớ hồi đó tin thầy bói nói mình sống đến 43 tuổi là dài lắm rồi, ai ngờ sống tới bây giờ luôn nè, mà cũng đúng tại mình không ở lại mà lên máy bay đi thay vì ở lại ngày 23 tháng 4 năm 1975!
Kể ra thì thành kẻ “bám víu” quá khứ căm hận dai dẳng lì lợm không buông, mà cuộc đời lỡ có nó lỡ mang vác “nợ nần” làm sao mà quên mà bảo là chưa từng có kia chứ!  Đọc tiếp “Luyến”

Hải Ơi!

(Tháng Tư – Nhớ)
Cuối tháng ba rồi đó Hải. Bao nhiêu năm đã trôi, tau không ngờ và không thể tưởng hơn ba mươi năm đã qua.
Tau nhớ mi! Trong lòng tau bao lần nhớ mi, nhớ nụ cười thật hiền, khuôn mặt trắng, tròn viền mái tóc búp bê. Mi với bài “Nắng Thủy Tinh”, mi với nốt nhạc đầu đời trên phím đàn guitar, dạy cho tau cách đánh.
Hải ơi! Tau có nhiều bạn đến nỗi mi la hoảng tại sao ta có thể có nhiều bạn đến thế. Còn mi chỉ chơi được với ta, Thanh-Loan và vài nhỏ bạn cũ trường Hùng-Vương ngày xưa.

Đọc tiếp “Hải Ơi!”

Mùi

Bầy kiến xếp hàng đi ngoằn ngoèo, khoảng cách từ cánh cổng vào nhà không xa lắm, bụi cúc ngai ngái mùi cay.  Khung cảnh chung quanh đẹp như huyền thoại, căn nhà nằm ẩn trong khu rừng nhỏ, trước mặt có suối, trên thân cây rêu xanh phủ một bên, bên kia trơ vỏ mốc, hoa dại dưới gốc lay lay ngơ ngác khi gót giầy của kẻ lạ bước kề bên. Bầy kiến bình thản đi theo đoàn bận rộn tíu tít, có lẽ trời chuyển mưa.

Ngập ngừng bên cửa, ngại ngùng hay sợ hãi phải lay động không gian chừng như trốn tránh hiện thực, người khách đứng thừ người đầu hơi cúi xuống nhìn mũi giày phủ đầy bụi đỏ, những hạt bụi lá mục.

– Ông tìm ai!

Người đàn ông quay mặt lại, giọng nói nhẹ nhàng thánh thót, phá vỡ lớp pha lê đông cứng chung quanh trước đó.

– Mùi, em đấy ư?

Run run ông hỏi, người phụ nữ mở tròn đôi mắt, đôi mắt không còn mùa lóe lửa, ánh lửa của niềm bí ẩn riêng tư vừa bị nổ tung.

Mùi là ai? Tên họ hay chỉ là tiếng vang trong tiềm thức, trong quá khứ ngộp ngụa đau đớn giẫy giụa giữa lằn ranh sống – chết, giữa thiện – ác, giữa phải – trái, giữa người và ta, cái ta hiện diện ngay tự thuở lọt lòng.

Khương, tên của người đàn ông,  tiến đến một bước, Mùi lui một bước, bước chân tiến – bước chân lùi của một bắt đầu trong quá khứ, trong một đêm tịch lặng. Bước chân lui đến góc tường, bước chân tiến dừng lại, vòng ôm siết chặt, đôi môi khóa, đóa trà mi vừa độ bị lộ lối vào ra.

Mùi sững lại lưng tựa vào gốc thông, không còn lối để bước lùi thêm nữa, thì ngừng, thì nhìn thẳng vào mặt người đối diện, ba mươi năm trốn chạy, lại thấy nhau.

Thìn Tuất Sửu Mùi – tứ hành xung họp lại trong một gia đình. Ngày còn sinh thời ông cụ hay ta thán: “Gia đình người ta tam hợp ngồi duỗi mà ăn, gia đình này xung kỵ chẳng đâu vào với đâu!”  Bà cụ hiền lành: “Ý trời thế nào mình thuận theo nhẽ ấy, tích đức sợ gì xung kỵ hão huyền!”

Xung kỵ Thìn với Tuất là hai chị em yêu cùng một người, rồi đau đớn chị chẳng nhường em, em không nhịn chị, người ta bỏ đi, cô Thìn cô Tuất còn mãi lẻ loi, đến xế đời hai chị em ở chung nhà, mặt nhìn mặt lòng chẳng cùng lòng, dấm dẳng cay đắng nhiếc móc vào ra! Giá như mà . . .

Sửu với Mùi, chẳng ai tranh thắng thua, chẳng ai màng ganh ghét, thế mà sợi dây oan nghiệt thít vào xương thịt, máu chẳng đổ chỉ chạy vòng quanh hai quả tim biết nhẽ đời, thu xếp cho nhẹ lòng nhau bằng cách không liên lạc, không nói không hỏi, có gặp chỉ khẽ khàng chào rồi lảng đi nơi khác. Nếu không trong gia đình dòng tộc, nếu chẳng có dáng dấp hình hài giống nhau Sửu và Mùi chỉ là kẻ lạ, dù trước khi có Khương hai chị em khắng khít chẳng rời.

Đổ tội cho Trời già không có mắt, kết oan cho bà Nguyệt ông Tơ làm chi, những con người có tim có óc, có yêu có ghét có giận có hờn, đã tạo thòng lọng chui vào, rồi đau rồi tủi, rồi oán rồi trách, để khổ cho nhau.

– Ông tìm tôi làm gì?

– Mùi vẫn còn giận anh?

– Giận là còn vương vấn, tôi thì không.

KHÔNG thật không? Đã hơn ngàn đêm ngậm nhấm.

Vọng trong đêm
tiếng thở dài nhân duyên lầm lỡ
Hạnh phúc buồn
quạnh hiu khuya trăn trở giấc mê
Sợi tóc xưa
ngậm ngùi vương trên vai người mùa cũ
Bước tình xa
trầm hương phai nhòa nhạt dấu chân về

Ngọn nến thắp
có đủ soi trời thinh lặng?
Rượu tràn ly
có mong khỏa lấp sông sầu?
Tình phụ tình
Người mãi vẫn phụ lòng nhau

Này vực sâu
Đêm
Tôi
Áo xưa nhàu *

Cứ tưởng “tiền dâm hậu thú” mọi sự sẽ hanh thông để trăm năm “sắc cầm hòa hợp”, ngờ đâu Sửu ghìm cương con tạo, cướp sợi tơ hồng, ngày lên tàu vượt biên, Mùi bị bỏ lại trên bãi vắng giờ khởi hành, em chị lạc dấu nhau.  Trớ trêu thay, Khương cùng chung chuyến, chuyện âm dương trại tị nạn khó ai lường, gộp chung mái nhà để được định cư, người tình thành anh rể!  Khúc phim quay nhanh trong trí óc như bài điếu văn an táng mối tình đầu.

Nhìn đôi mũi giày đàn ông vướng bụi đỏ, mùi mưa ngày cũ, mùi mưa ẩm bây giờ,  đôi tay muốn vươn ra ôm lấy, lại thôi!

khi ta nằm trên thảm cỏ khô mùa đông
yêu & kêu gào ngọn lửa mặt trời hồng tháng hạ
những vì sao tuyết rơi

nhắm mắt / không nhìn nhau
lạnh
mảnh trăng non oằn cong vành môi rạn nứt
hơi thở trầm / hư hao

mầm của đất hoang trỗi dưới sống lưng cô tịch
nhọn / bén ngót / lùa đường tay thạch nhũ
phiến đá hoa cương / vai / xây cầu phù lệ
tóc chảy dòng thương ca / xa / thiên cổ chợt về

khi ta nằm trên ngọn cỏ khô mùa đông
yêu! và không chờ đợi *

Ngày gặp lại, sân bay đón nhau, chẳng nhìn! Khương lừng chừng muốn nói điều gì lại thôi, bảo lãnh cho cả gia đình sang Mỹ còn gì quý hóa hơn. Ông bà cụ vui vẻ thấy cả nhà đoàn tụ, mất có mấy chỉ vàng ngày cho Sửu vượt biển, thêm chút ít lót tay công an phường quận, để cả nhà lên máy bay cho nhanh, tất cả như giấc chiêm bao chập chờn thành thật.  

Thìn biến thành Thera  hoang dã – Tuất trở nên  Thora cơn bão của trời.  Nghịch ngạo phải dính líu với nhau, mối tình đầu của cả hai đã thành tro thành bụi tự bao giờ, thế mà họ vẫn hí hoáy vẽ vời, vẫn giữ chữ chung – chữ trinh cho kiếp khác có thể thấy lại nhau! Cả hai hay chỉ một!

Sửu biến thành Suha, tên của vì sao Ả Rập – người con gái độc nhất trong nhà có chồng, có hình đám cưới, dù ngày cưới chẳng có mẹ chẳng có cha, chẳng có em, chẳng có chị, vì lúc ấy gia đình còn luẩn quẩn trong căn nhà có giàn hoa giấy làm cổng, có bộ tràng kỷ làm chứng gia đình “danh gia vọng tộc”, chiều nghe tiếng chuông chùa đổ, sáng nghe tiếng chuông nhà thờ ngân, vào ra đi đứng nhẹ nhàng, giấu kín nỗi buồn thanh xuân thầm kín.

Mùi biến thành Munael tia sáng của trăng, khi trồi khi sụt.  Ngày nhận hình cưới của chị, chẳng có sông, không thấy biển mà sóng cuồn cuộn trong lòng, đôi môi của chú rể là của Mùi, đôi mắt của chú rể cũng của Mùi, bờ vai rộng, ngón tay thon, nỗi rạo rực yêu thương không loãng đi chỉ nồng như rượu, rượu được nén kỹ, được chôn được ủ, con men tình ngày một sinh sôi, cơn ghen tình ngày một hừng hực.  Mùi không còn nghĩ đến vượt biển nữa, sau lần cả nhóm bị bỏ lại, lếch thếch tìm đường về Sài-gòn từ Rạch Giá, may mà không bị bắt.

Sang Mỹ, người đầu tiên rời khỏi căn chung cư là Mùi, vì không thể chấp nhận mỗi ngày mỗi gặp mặt, khi Khương ghé gởi con cho bà ngoại và các dì. Đi không trở lại, đi để giết nỗi cô độc đêm, đi để thành Munael De Leon, để khởi loạn, để có con để xóa để bôi những sắc màu u tối quá khứ. Cha Mẹ trăm tuổi trở về chịu tang vội vã, tất tưởi rồi đi, nhất định cắt cầu, nhất định không dùng dằng, dù có nhiều lần Khương tìm dịp mở lời, Mùi đã gạt ngang rồi lẩn tránh.

Đời cứ trôi, những nhớ nhung nhập nhòa trong bóng đêm, đôi mắt xanh thành đôi mắt đen, bờ lưng dầy chắc nịch, nhớ tấm lưng gầy gò lần đầu, ngây ngô vượt ranh giới để trở thành thiếu phụ. Chẳng khó gì để ngoại tình tư tưởng, người phụ nữ Á Đông khép kín, nhẹ bước vào ra như con búp bê bằng sứ, chăm sóc chồng cho đến lúc chồng chẳng còn hiện diện trên thế gian, hầu hạ con cho đến lúc chúng chẳng còn cần mẹ, ngôi nhà xinh xắn nhỏ nhắn giữa cánh rừng là món quà Joe De Leon tặng vợ, kỷ niệm hai mươi lăm năm thành hôn, cũng là thành hôn, chưa đến nửa giờ đồng hồ trong tòa án thành phố, có ông chánh án râu quai nón, có một người làm chứng, cùng ký vào sổ bộ, để có tờ giấy hôn thú là xong, chẳng gia đình hai bên, chẳng hình chẳng ảnh.  Ngôi nhà để nghỉ ngơi sau những ngày đi làm mệt mỏi, trở thành am thất cho Mùi sau khi Joe bị tai nạn mất đi, nàng về ở hẳn xa lánh mọi người.

– Mùi không mời anh vào nhà ư?  

– Vào làm gì nữa, anh về đi!

– Sửu đã mất hơn năm rồi, Mùi không biết tin ư?

– Mất thì sao, còn thì sao!

– Anh xin lỗi!

– Lỗi gì?

– Lỗi hẹn với em.  Anh không thể nào làm khác đi được, chuyến tàu gặp sự dữ, Sửu gặp sự dữ, chỉ một anh là nơi Sửu tựa nương, em không cho anh điều kiện để nói cho em biết, đến bây giờ . . .

Khương nói không thở, Mùi nghe không thở, ngực trĩu nặng, mắt hoa đất trời chao đảo! Chị Sửu ơi nỗi đau đớn dày vò ai đau hơn ai? 

Trời bắt đầu lắc rắc hạt mưa, Khương vẫn đứng trước Mùi, nàng đang ôm mặt nức nở khóc!

Sáu mươi năm cuộc đời có đủ để hiểu hết lẽ được mất – có đủ để thấy hết nỗi đớn đau, có thật rằng tứ hành xung khắc, hay tại con người không chịu mở lòng ra. Yêu và Chấp./.

* Thơ: Phù Dung

Ấu Tím 2014

Xuân Ngọt

Gần đến Tết, dù dặn lòng thôi không nhớ – không ngậm ngùi – không để kỷ niệm ngày xưa kéo về làm lòng chùng buồn thiu thỉu nữa mà rồi vẫn bị hình ảnh thanh xuân ám ảnh, những đóa hoa – những luồng gió xuân quấn quít tà áo mỏng, hơi lạnh nhè nhẹ lay lá cành, mơn đôi má làn môi cùng bao ước mộng tưởng chừng giơ tay vói đến.


Những ngày cận Tết xôn xao, cô thợ may áo dài than không có giờ để ngủ, ông thợ đóng giầy xin khất đến ngày đưa ông Táo về trời, chiếc xe đạp được sơn lại màu hoa hiên có chút kim nhũ lóng lánh, bao nhiêu tiền ky cóp từ những phần quà sáng nhịn không ăn, để giành chơi hụi cùng đám bạn cùng lớp được dùng cho những việc đơn giản ấy, trong trí đã tính nhẩm những phong bao lì xì từ ông bà và bố mẹ sẽ nhiều hơn gấp bội. Mùa Xuân thanh bình của các cô gái thành thị không biết lửa khói chiến tranh.


Tết đồng nghĩa với bánh chưng xanh dưa hấu đỏ, đồng nghĩa với mứt ngọt hạt dưa bùi, bao nhiêu hoa trái tốt tươi ngày Tết cùng bao nhiêu điều cấm kỵ kiêng khem để mong cầu một năm mới sáng lạng hơn năm cũ, vui hơn hạnh phúc hơn. Đầu năm không ăn vị đắng cay, không uống nước lã, bếp lò được lau chùi sạch chờ ông Táo trở về, trong thời gian này nhiều nhà yên ắng không nấu nướng. Người nhóm bếp đầu năm là bà là mẹ, những người giữ tay hòm chìa khóa tính toán chi tiêu chợ búa cho gia đình.


Trước khi ông Táo về trời, thời tiết thường hưng hửng nắng, nắng không rực lửa nắng đủ mênh mang làm hồng đôi má, gió cũng vừa lay động đôi tà, thời tiết của phơi kiệu làm dưa, phơi đủ mọi thứ sên mứt, thông thường là khoai bí gừng dừa các vật liệu này rẻ vì nhiều và dễ làm.


Những chiếc mâm nho nhỏ có màu hồng đỏ là khoai, mâm phơi bí màu trắng, hơi ngả vàng là gừng, dừa thì được pha chế đủ màu cho đẹp .


Dừa rám mua đủ đôi về gọt sạch lụa nâu, chỉ giữ phần thịt trắng ngọc ngà, bào thật mỏng tránh bị đứt giữa chừng, sợi dừa càng dài càng khéo. Bà truyền cho mẹ, mẹ truyền xuống con gái nguyên tắc dễ dàng để làm mứt ngày Tết. Gọt rửa cho sạch, nhúng vôi cho cứng, nhúng phèn cho giòn, trụng cho tái (chín nửa chừng), vắt cho khô, phơi cho héo, ngâm với đường tỉ lệ tương đương: một – một cho các trái có vị chua, một – hai phần ba cho trái có vị trung, một – một nửa cho củ hay dừa, cứ thế mà các cô con gái thi nhau làm khéo, thi nhau pha màu thi nhau làm mứt cho các loại trái lạ, khó hơn nữa như mứt chanh, mứt tắc, mứt me, mứt khổ qua, mứt cà chua, mứt mận Đà Lạt.


Thuở ấy mỗi năm được làm mứt một lần, chẳng ai cần học thiền học yoga để tịnh tâm tịnh trí, chỉ cần làm một thố mứt tắc, một keo mứt mận, một hũ to mứt me là tâm nào cũng bình an, nỗi buồn nào cũng vơi khi ngồi gọt vỏ.
Lần học làm mứt tắt đầu tiên với chị Vượng là lần chị bị mẹ bắt phải dứt khoát cắt đứt với anh Nguyên, người láng giềng nhà xéo một căn thôi đối diện với nhà chị, anh có tật ở tay trái nên không phải đi lính. Chị xõa tóc ngồi tựa lưng vào khung cửa bếp, chiếc rổ trước mặt đầy trái tắc xanh tròn trịa, trái lớn nhất bằng ngón chân cái, tay chị mân mê dùng chiếc dao cau của bác, gọt thật mỏng để còn lại phần vỏ trắng bên trong, sau đó tỉ mỉ dùng đầu đũa lấy hết hột bên trong ra cùng lúc vắt nước chua mà không làm trái bị rách, vừa làm chị vừa âm ư hát, có lúc nước mắt ứa ra, chữa thẹn với tôi vì nước chua bắn vào mắt. Làm con gái ngày xưa bị ép uổng trăm bề, cứ ngỡ làm mứt tắt xong chị sẽ quên anh Nguyên, ai ngờ chị âm thầm sang ở hẳn nhà anh, vì gia đình của anh không có con gái, mẹ anh Nguyên yêu chị vô cùng, chị vừa đẹp vừa khéo vừa giỏi vừa ngoan (!), con gái thời ấy có tú tài đi dạy học hiếm hoi lắm. Thế là đám cưới phải có, chẳng lẽ để mất con gái không có khay cau mâm trầu? Sau ngày cưới hai bà thông gia chẳng có nhiều thì giờ để giận hờn nhau lâu, vì phải lo việc xếp ổ cho chị và sau đó mải tranh nhau trông cháu.


Làm mứt mận Đà Lạt không cần gọt vỏ, nhưng phải dùng dao khứa từng khứa thật mỏng đối xứng nhau qua chiếc hạt cứng, là lần học cách làm với bác Mận, người sinh con năm một từ ngày bị gả đi lấy chồng. Vị chua chát của mận Đà Lạt trại hầm không hiểu sao lại được các cô nữ sinh thích thú, hình dạng trái mận dễ thương có một khứa như dấu ngón tay bấm vào, cắt xong phải ngâm nước muối, nước vôi, nấu lại với phèn để thật khô mới ngâm với đường, sau đó sên đường cho đến khi trái trở màu đỏ hồng, để ra khay phơi cho ráo, vị chua vị chát biến mất chỉ còn vị ngọt sần sật của trái đã được các chất vôi chất phèn tác dụng. Cái khăn dạ choàng đầu bộ quần áo nâu, không gian xám trong gian nhà gỗ, mùi chè mùi hoa quì, hoa sói chung quanh thêm mùi đường ngọt, tiếng nổ của than ti tách trong chiếc lò be bé thường là để xấy chè, tiếng con nít chí chóe chung quanh, bác Mận lâu lâu lại phải đứng lên giàn xếp cho êm, bụng của bác đã to vượt mặt. Cả làng cả trại gia đình nào cũng thế, nhiều nhất đến cả chục, ít nhất cũng ba bốn, không có con đông là bị chê nhà không có phúc. Phần chan chát của cuộc đời theo với xã hội chả bà nào nếm thấy, chỉ còn vị ngọt gia đình phúc đức nên có đông con.


Đến khi học làm mứt me kinh khủng hơn, phải cạo cho hết lớp phấn chua bên ngoài luộc sơ ngâm muối cho trái nở bóc vỏ khều bỏ hạt, mười đầu ngón tay héo queo quắt vì ngâm nước muối pha phèn. Ôi chao làm mứt me với bà đang ghen chồng, vừa bóc vỏ vừa rên rỉ kể lể chuyện phải rình rập từng giờ đi giờ về, phải cân đo từng lời chê bai mình nhận, lời âu yếm bị mất, xét nét từng cử chỉ ngày xưa phong thái bây giờ của chồng, mùi me chua cùng câu chuyện ghen tương hơn giận khiến đến bây giờ vẫn còn nhớ đến, vì khi vừa làm sạch xong thau me thì ông chồng về, ông giúp bà xóc me cho ráo, hỏi có cần ông phụ trụng me không? Thay vì trả lời có hay không, bà trả lời giấm giẳng nghi ngờ hẳn ông vừa hẹn hò với ai trở về nhà chăng, dù đang có bạn trong nhà. Người chồng cười trừ đùa cợt: “Ấy hẳn em yêu quá đấy mà, củi mục như anh ai thèm mà ghen em ơi!” Cứ chua chua ghen ghen như thế không biết có giết dần hạnh phúc gia đình không, mà năm nào muốn có mứt me là đến thăm nhà ấy, vị chua ngọt cũng lắm người nghiện ngập.


Loại mứt kỳ lạ nhất là mứt trái khổ qua, ép trái có vị đắng thành vị ngọt là một kỳ công, kỳ công giống như chuyển đau khổ thành nguồn hạnh phúc, công thức làm mứt này học được từ một ni cô tu tại gia, triết lý cô dùng đơn giản lắm, để thời gian giúp chất đắng nguôi ngoai, sau đó tẩm đường vào cũng để thời gian tác động vào nó, cùng lúc khéo léo chắt cho hết vị đắng bỏ đi mà không làm bầm dập hình dạng đẹp đẽ của trái. Cô dặn dò muốn làm mứt này phải lựa mua trái nho nhỏ, màu trắng gai nở to, đừng mua trái gai nhọn màu xanh lè khó mà đổi vị. Ai ngờ ngay cả cây trái cũng được ngắm dung nhan để đo lòng dạ, dung nhan xởi lởi lòng dạ không rắc rối “đắng chằng”


Những hoài niệm xa vời ấy chỉ làm đậm thêm những nét đổi thay, Tết bây giờ chỉ còn lại những chữ Xuân trên trang báo hiếm người mê mẩn đọc, trong các hội chợ ngày càng vắng khách du xuân, thơ xuân không còn ý nhiều để so vần khẩy vận, chuyện ngày xuân chẳng còn bao hớn hở tình xuân. Thời gian vụt biến, những đổi thay chóng mặt, thuở nào khách đến nhà chơi phải chạy ra đề pô mua hai chai xá xị con cọp cùng một cục đá chạy vội về nhà, sợ đá tan chảy mất, bây giờ nghe dặn dò nhau đừng uống nhiều loại nước có ga đó nữa, toàn là đường độc địa. Sợ hãi chất đường thì còn đâu hứng thú truyền cho con cho cháu những món mứt cầu kỳ ngày Tết xưa ngày Xuân cũ.


Theo chu trình thay đổi toàn cầu, nhớ ngày nào con người vào rừng tìm lá cây làm thức ăn, làm thuốc chữa bệnh, tiến lên thành công nghệ hóa thực phẩm dùng phân bón trồng tỉa cho ra thật nhiều thành phẩm để cung phụng cho loài người, điện khí hóa, công nghiệp hóa, nay thì bao nhiêu hội bao nhiêu nhóm kêu gọi trở về nguyên khai organic, từ thức ăn đến vải vóc. Từ vải tám thô nhuộm bằng trái bồ hòn, được mặc ny lông – tê ta rông một ngàn, một ngàn rưởi đến sa teng sợi hóa học, nay lại quay về tơ tằm bông vải, sẽ đến lúc con người thực hiện hoàn hảo điều này, hoàn toàn quay về nguyên thủy uống nước lã không ga, ăn rau tự trồng tự kiếm, không đường muối bột ngọt, mặc quần áo bằng sợi gai, bông vải, tơ tằm.


Muốn trở lại thuở hí hửng áo dài ny lông kim tuyến, mứt ngọt có phèn chua hàn the, hẳn phải chờ đến chu kỳ mới, chu kỳ ấy chẳng còn người nào biết làm các loại mứt chua chát đắng cay ấy nữa, thì con người thời ấy sẽ lại tự nghĩ ra loại mứt khác lo gì?