Gần đến Tết, dù dặn lòng thôi không nhớ – không ngậm ngùi – không để kỷ niệm ngày xưa kéo về làm lòng chùng buồn thiu thỉu nữa mà rồi vẫn bị hình ảnh thanh xuân ám ảnh, những đóa hoa – những luồng gió xuân quấn quít tà áo mỏng, hơi lạnh nhè nhẹ lay lá cành, mơn đôi má làn môi cùng bao ước mộng tưởng chừng giơ tay vói đến.
Những ngày cận Tết xôn xao, cô thợ may áo dài than không có giờ để ngủ, ông thợ đóng giầy xin khất đến ngày đưa ông Táo về trời, chiếc xe đạp được sơn lại màu hoa hiên có chút kim nhũ lóng lánh, bao nhiêu tiền ky cóp từ những phần quà sáng nhịn không ăn, để giành chơi hụi cùng đám bạn cùng lớp được dùng cho những việc đơn giản ấy, trong trí đã tính nhẩm những phong bao lì xì từ ông bà và bố mẹ sẽ nhiều hơn gấp bội. Mùa Xuân thanh bình của các cô gái thành thị không biết lửa khói chiến tranh.
Tết đồng nghĩa với bánh chưng xanh dưa hấu đỏ, đồng nghĩa với mứt ngọt hạt dưa bùi, bao nhiêu hoa trái tốt tươi ngày Tết cùng bao nhiêu điều cấm kỵ kiêng khem để mong cầu một năm mới sáng lạng hơn năm cũ, vui hơn hạnh phúc hơn. Đầu năm không ăn vị đắng cay, không uống nước lã, bếp lò được lau chùi sạch chờ ông Táo trở về, trong thời gian này nhiều nhà yên ắng không nấu nướng. Người nhóm bếp đầu năm là bà là mẹ, những người giữ tay hòm chìa khóa tính toán chi tiêu chợ búa cho gia đình.
Trước khi ông Táo về trời, thời tiết thường hưng hửng nắng, nắng không rực lửa nắng đủ mênh mang làm hồng đôi má, gió cũng vừa lay động đôi tà, thời tiết của phơi kiệu làm dưa, phơi đủ mọi thứ sên mứt, thông thường là khoai bí gừng dừa các vật liệu này rẻ vì nhiều và dễ làm.
Những chiếc mâm nho nhỏ có màu hồng đỏ là khoai, mâm phơi bí màu trắng, hơi ngả vàng là gừng, dừa thì được pha chế đủ màu cho đẹp .
Dừa rám mua đủ đôi về gọt sạch lụa nâu, chỉ giữ phần thịt trắng ngọc ngà, bào thật mỏng tránh bị đứt giữa chừng, sợi dừa càng dài càng khéo. Bà truyền cho mẹ, mẹ truyền xuống con gái nguyên tắc dễ dàng để làm mứt ngày Tết. Gọt rửa cho sạch, nhúng vôi cho cứng, nhúng phèn cho giòn, trụng cho tái (chín nửa chừng), vắt cho khô, phơi cho héo, ngâm với đường tỉ lệ tương đương: một – một cho các trái có vị chua, một – hai phần ba cho trái có vị trung, một – một nửa cho củ hay dừa, cứ thế mà các cô con gái thi nhau làm khéo, thi nhau pha màu thi nhau làm mứt cho các loại trái lạ, khó hơn nữa như mứt chanh, mứt tắc, mứt me, mứt khổ qua, mứt cà chua, mứt mận Đà Lạt.
Thuở ấy mỗi năm được làm mứt một lần, chẳng ai cần học thiền học yoga để tịnh tâm tịnh trí, chỉ cần làm một thố mứt tắc, một keo mứt mận, một hũ to mứt me là tâm nào cũng bình an, nỗi buồn nào cũng vơi khi ngồi gọt vỏ.
Lần học làm mứt tắt đầu tiên với chị Vượng là lần chị bị mẹ bắt phải dứt khoát cắt đứt với anh Nguyên, người láng giềng nhà xéo một căn thôi đối diện với nhà chị, anh có tật ở tay trái nên không phải đi lính. Chị xõa tóc ngồi tựa lưng vào khung cửa bếp, chiếc rổ trước mặt đầy trái tắc xanh tròn trịa, trái lớn nhất bằng ngón chân cái, tay chị mân mê dùng chiếc dao cau của bác, gọt thật mỏng để còn lại phần vỏ trắng bên trong, sau đó tỉ mỉ dùng đầu đũa lấy hết hột bên trong ra cùng lúc vắt nước chua mà không làm trái bị rách, vừa làm chị vừa âm ư hát, có lúc nước mắt ứa ra, chữa thẹn với tôi vì nước chua bắn vào mắt. Làm con gái ngày xưa bị ép uổng trăm bề, cứ ngỡ làm mứt tắt xong chị sẽ quên anh Nguyên, ai ngờ chị âm thầm sang ở hẳn nhà anh, vì gia đình của anh không có con gái, mẹ anh Nguyên yêu chị vô cùng, chị vừa đẹp vừa khéo vừa giỏi vừa ngoan (!), con gái thời ấy có tú tài đi dạy học hiếm hoi lắm. Thế là đám cưới phải có, chẳng lẽ để mất con gái không có khay cau mâm trầu? Sau ngày cưới hai bà thông gia chẳng có nhiều thì giờ để giận hờn nhau lâu, vì phải lo việc xếp ổ cho chị và sau đó mải tranh nhau trông cháu.
Làm mứt mận Đà Lạt không cần gọt vỏ, nhưng phải dùng dao khứa từng khứa thật mỏng đối xứng nhau qua chiếc hạt cứng, là lần học cách làm với bác Mận, người sinh con năm một từ ngày bị gả đi lấy chồng. Vị chua chát của mận Đà Lạt trại hầm không hiểu sao lại được các cô nữ sinh thích thú, hình dạng trái mận dễ thương có một khứa như dấu ngón tay bấm vào, cắt xong phải ngâm nước muối, nước vôi, nấu lại với phèn để thật khô mới ngâm với đường, sau đó sên đường cho đến khi trái trở màu đỏ hồng, để ra khay phơi cho ráo, vị chua vị chát biến mất chỉ còn vị ngọt sần sật của trái đã được các chất vôi chất phèn tác dụng. Cái khăn dạ choàng đầu bộ quần áo nâu, không gian xám trong gian nhà gỗ, mùi chè mùi hoa quì, hoa sói chung quanh thêm mùi đường ngọt, tiếng nổ của than ti tách trong chiếc lò be bé thường là để xấy chè, tiếng con nít chí chóe chung quanh, bác Mận lâu lâu lại phải đứng lên giàn xếp cho êm, bụng của bác đã to vượt mặt. Cả làng cả trại gia đình nào cũng thế, nhiều nhất đến cả chục, ít nhất cũng ba bốn, không có con đông là bị chê nhà không có phúc. Phần chan chát của cuộc đời theo với xã hội chả bà nào nếm thấy, chỉ còn vị ngọt gia đình phúc đức nên có đông con.
Đến khi học làm mứt me kinh khủng hơn, phải cạo cho hết lớp phấn chua bên ngoài luộc sơ ngâm muối cho trái nở bóc vỏ khều bỏ hạt, mười đầu ngón tay héo queo quắt vì ngâm nước muối pha phèn. Ôi chao làm mứt me với bà đang ghen chồng, vừa bóc vỏ vừa rên rỉ kể lể chuyện phải rình rập từng giờ đi giờ về, phải cân đo từng lời chê bai mình nhận, lời âu yếm bị mất, xét nét từng cử chỉ ngày xưa phong thái bây giờ của chồng, mùi me chua cùng câu chuyện ghen tương hơn giận khiến đến bây giờ vẫn còn nhớ đến, vì khi vừa làm sạch xong thau me thì ông chồng về, ông giúp bà xóc me cho ráo, hỏi có cần ông phụ trụng me không? Thay vì trả lời có hay không, bà trả lời giấm giẳng nghi ngờ hẳn ông vừa hẹn hò với ai trở về nhà chăng, dù đang có bạn trong nhà. Người chồng cười trừ đùa cợt: “Ấy hẳn em yêu quá đấy mà, củi mục như anh ai thèm mà ghen em ơi!” Cứ chua chua ghen ghen như thế không biết có giết dần hạnh phúc gia đình không, mà năm nào muốn có mứt me là đến thăm nhà ấy, vị chua ngọt cũng lắm người nghiện ngập.
Loại mứt kỳ lạ nhất là mứt trái khổ qua, ép trái có vị đắng thành vị ngọt là một kỳ công, kỳ công giống như chuyển đau khổ thành nguồn hạnh phúc, công thức làm mứt này học được từ một ni cô tu tại gia, triết lý cô dùng đơn giản lắm, để thời gian giúp chất đắng nguôi ngoai, sau đó tẩm đường vào cũng để thời gian tác động vào nó, cùng lúc khéo léo chắt cho hết vị đắng bỏ đi mà không làm bầm dập hình dạng đẹp đẽ của trái. Cô dặn dò muốn làm mứt này phải lựa mua trái nho nhỏ, màu trắng gai nở to, đừng mua trái gai nhọn màu xanh lè khó mà đổi vị. Ai ngờ ngay cả cây trái cũng được ngắm dung nhan để đo lòng dạ, dung nhan xởi lởi lòng dạ không rắc rối “đắng chằng”
Những hoài niệm xa vời ấy chỉ làm đậm thêm những nét đổi thay, Tết bây giờ chỉ còn lại những chữ Xuân trên trang báo hiếm người mê mẩn đọc, trong các hội chợ ngày càng vắng khách du xuân, thơ xuân không còn ý nhiều để so vần khẩy vận, chuyện ngày xuân chẳng còn bao hớn hở tình xuân. Thời gian vụt biến, những đổi thay chóng mặt, thuở nào khách đến nhà chơi phải chạy ra đề pô mua hai chai xá xị con cọp cùng một cục đá chạy vội về nhà, sợ đá tan chảy mất, bây giờ nghe dặn dò nhau đừng uống nhiều loại nước có ga đó nữa, toàn là đường độc địa. Sợ hãi chất đường thì còn đâu hứng thú truyền cho con cho cháu những món mứt cầu kỳ ngày Tết xưa ngày Xuân cũ.
Theo chu trình thay đổi toàn cầu, nhớ ngày nào con người vào rừng tìm lá cây làm thức ăn, làm thuốc chữa bệnh, tiến lên thành công nghệ hóa thực phẩm dùng phân bón trồng tỉa cho ra thật nhiều thành phẩm để cung phụng cho loài người, điện khí hóa, công nghiệp hóa, nay thì bao nhiêu hội bao nhiêu nhóm kêu gọi trở về nguyên khai organic, từ thức ăn đến vải vóc. Từ vải tám thô nhuộm bằng trái bồ hòn, được mặc ny lông – tê ta rông một ngàn, một ngàn rưởi đến sa teng sợi hóa học, nay lại quay về tơ tằm bông vải, sẽ đến lúc con người thực hiện hoàn hảo điều này, hoàn toàn quay về nguyên thủy uống nước lã không ga, ăn rau tự trồng tự kiếm, không đường muối bột ngọt, mặc quần áo bằng sợi gai, bông vải, tơ tằm.
Muốn trở lại thuở hí hửng áo dài ny lông kim tuyến, mứt ngọt có phèn chua hàn the, hẳn phải chờ đến chu kỳ mới, chu kỳ ấy chẳng còn người nào biết làm các loại mứt chua chát đắng cay ấy nữa, thì con người thời ấy sẽ lại tự nghĩ ra loại mứt khác lo gì?
Dâu!

Lâu rồi không còn thèm thuồng trái dâu chín mọng, trái dâu một thuở Đà Lạt êm đềm. Ngày ấy dâu là món đắt tiền phải vào dịp đặc biệt mới dám mua, chẳng nhớ dâu được trồng ở xó xỉnh nào trên Đà Lạt, chỉ nhớ mận Trại Hầm, những trái mận chua chua màu xanh, khó lắm mới có cây cho vị ngòn ngọt, gần đến hạt trái có vị đắng làm mất cả ngon, sau này các cô gái Đà Lạt tỉ mỉ dùng dao lam khứa mỏng trái mận làm mứt, mứt mận ngon và đẹp vì công ngồi cắt vòng, ngâm cho ra hết vị chua vị đắng, để tẩm đường vào, trái mận màu xanh vàng biến thành màu đỏ hổ phách thơm tho. Khu đập Đa Thiện – ấp Thái Phiên người ta trồng cà rốt, đến mùa thu hoạch, trước khi đem ra chợ bán, dân buôn mang cà rốt xuống bờ hồ, gần cầu Ông Đạo rửa cho sạch đất cát trước khi đóng hàng gởi về Sài Gòn bán. Khu Nha Địa Dư, chuyên trồng rau xà lách, loại lá lụa từng búp để ăn với thịt bò xào, loại cứng lá nhúng nhai giòn sần sật thuở ấy được người Đà Lạt ăn kèm với phở thay giá, bông cải cũng được trồng ở khu này. Ấp Du Sinh hình như trồng khoai tây, cà rốt và đủ mọi thứ. Đọc tiếp “Dâu!”
Tí Tách Bếp Vui
Tí Tách Bếp Vui
Năm lên tám tuổi tôi biết làm bánh bông lan, vì quá dễ, một chén trứng vịt cộng một chén đường, một chén bột là xong. Kế bên nhà tôi trong xóm Bàn Cờ là ngôi trường dậy cấp tiểu học do cô giáo Tư mở. Gọi là trường nhưng nó là ngôi nhà hai tầng, được xếp bàn ghế cho cô dậy học. Tiếng học trò đọc theo cô ê a giọng miền nam thật ngọt:
Hột gà tròn, hột gà nứt, hột gà bể
Lưỡi câu cụt, lưỡi câu dài, vòng bắt heo! Đọc tiếp “Tí Tách Bếp Vui”
Mưa
Hôm nay là sinh nhật của cô Út, cô Cọp Cái của gia đình, mưa ơi là mưa, tiếng cửa vừa đóng lại, lời chào với: “Con đi nha Má!” nhóm bạn của cô mang cô đi ăn trưa tại một nhà hàng nào đó trong vùng, có thể là nhà hàng Nhật hay nhà hàng Mỹ, hôm qua Út nói với tôi như thế.

Hai mươi lăm tuổi vẫn còn nhõng nhẽo, tôi nói với con hôm qua: Bằng tuổi con má đã có em bé, đã làm mẹ, con thì y như . . . Nhìn con tôi ngưng lại, ngắm kỹ thêm chút nữa, ừ con bé vẫn còn nhỏ xíu cho dù đối với xã hội con đã sẵn sàng bước chân vào với sự tự tin và lòng chân thành.

Trời hôm qua thật đẹp, lái xe lên nhà cậu Giữa. L mừng sinh nhật em gái bằng một buổi chợ trời San Francisco, ăn vặt “lung tung” và dẫn ba má đi chơi tung tăng, đủ dài để toát mồ hôi quên làn hơi lạnh 50 độ F, đủ ngắn để đầu gối của ba không bị đau.
Đến khu dân chúng cắm lều biểu tình, nhìn cảnh tự do lộn xộn, nhìn các cô các cậu trẻ múa hát theo nhạc kiểu tự phát giống vài youtube do Flash Mob giàn dựng thật vui.


Chợ trời San Francisco rất đặc biệt- dân chúng tại thành phố đắt đỏ này sống . . . sướng lắm, nhà cao cửa chút xíu như cái hộp,

Tiền chăm sóc chung quanh khoảng 300 đồng US một tháng, trong đó có vườn cho chó đến chơi!
Dân San Francisco chăm sóc sức khỏe rất kỹ, ăn uống rau quả không có hóa chất, không muốn phá hư môi trường sống, suy nghĩ phóng khoáng, thích nuôi chó, thân thiện, thức ăn từ biển mang lên bán đắt ơi là đắt



Cậu Giữa nói: Rau này ở nhà mình đầy ra nhổ không hết “khó nhổ dễ trồng!” phải không Má!


“Má mua về nấu soup ăn ngon lắm, bào mỏng trộn salad cũng ngon nữa!” Anh chàng ở nhà không hề đụng đến cái nồi, bây giờ nấu ăn kiểu cách đủ vị – Tây – Pháp – Ý


Má mua cá cod được đó – cá ông sư monk fish cũng ngon luôn, ăn giống thịt lobster lắm!

Món hoa này lâu ghê rồi má không làm nữa hả! Ừ má sẽ làm lai., hoa đẹp quá!

Ba cha con bị má bắt ăn uống thanh đạm nên ốm nhom ốm nhách – không phải đâu, mình ăn uống điều độ tập thể dục đàng hoàng mà, đâu phải tại má đâu nè!
Máy hình nhờ người ta chụp giúp không bao giờ có hinh đẹp – miễn mình nhớ là đủ rồi mà


Nhà mình mà có trần cao, con cũng treo đèn như vầy đó,

Má nhìn gì đó! Tiếng kèn hay quá!

Còn cao hơn nữa hả!
Một ngày thật êm đềm .
Nhớ – Nghĩ – Viết
Có lẽ tôi không có thói quen chờ đợi người khác làm điều gì đó cho mình, tôi tự mình tìm tòi làm lấy! có lẽ vì hoàn cảnh – vì những biến cố đã xảy đến trong cuộc đời của tôi khiến tôi có cá tính này. Tôi thích cho đi hơn là nhận lấy, luôn trong tâm trạng, sắp đi sang một nơi chốn mới cần gì lấy thêm vào cho nặng, cho khó mang vác.
Lúc Mẹ tôi ra đi, Mẹ chưa đến tuổi bốn mươi, tôi chưa đủ lứa trăng 18, bốn cô em gái cách nhau hai tuổi, ba tuổi , năm tuổi, bảy tuổi và cậu em cách mình hơn con giáp, lúc ấy chưa lên hai! Ngẫm lại, tôi ngơ ngơ ngác ngác lãnh chức tay hòm chìa khóa do Bố tôi giao cho. Bố tôi đưa cho tôi một tháng tiền chợ, mỗi ngày trước khi đi học tôi đưa cho bà Út đi chợ, bà Út là người vú nuôi của cô em thứ hai, dáng bà tròn trĩnh không có thước tấc – bà nói giọng nhỏ nhẹ, nhưng kiên quyết đối với tôi, mỗi khi tôi mè nheo bà cho tôi ăn vụng. Nhớ đến bà tôi nhớ món thịt kho với đu đủ. Tôi chưa bao giờ được ăn vì mẹ tôi không kho thịt độn với bất kỳ thứ gì. Tôi khen ngon tới tấp dù bà nấu chỉ một món, không như mẹ nấu ba món kho – canh – xào. Bà dùng chiếc nồi gang to, kho nhạt rồi rau ghém chấm nước kho, đi học về đói mềm người xin được ăn trước, bà nhất định: “Cô phải chờ cậu về mới được ăn!”
Thay quần áo xong, tôi lẻn vào bếp mở nồi nhón miếng thịt, bà bắt gặp, mặt của bà cau lại lẩm bẩm: “Con gái ăn vụng như thế không tốt, xấu kắm cô ạ, phải nghiêm trang phải đâu ra đấy, không “thờm bơm” được!” Mãi đến bây giờ tôi cũng không hiểu chữ “thờm bơm” có nghĩa là gì, nhưng chắc chắn không có nghĩa tốt.
Trưa hôm ấy, khi ngồi vào bàn ăn trưa, bà mách với Bố tôi, ông nhìn tôi cười và bảo: “Con phải nghe lời bà Út, con lớn rồi sao lại đi ăn vụng!” tôi phân bua: “Con đói quá chừng!” bố tôi cười hiền nói với bà Út: “Đi chợ bà mua thêm bánh trái cho các cháu ăn dặm, hay cho các cháu ăn cơm trước để các cháu đi học buổi chiều nữa, không cần đợi tôi về!”
Bố tôi nói thế, nhưng bà nhất định không cho chúng tôi ăn cơm trưa trước Bố, bảo như thế là hỗn, không được là không được! Bà cho chúng tôi ăn phỏng – bỏng, một loại cốm gạo sên với đường gừng, hay cơm cháy chan mỡ hành, để đợi bữa chính ngồi chung bàn với Bố. Bà bảo để Bố ngồi ăn một mình sợ ông buồn.
Tôi nhớ mãi sau ngày Mẹ tôi bất ngờ ra đi, Bố tôi đau khổ lắm, ông viết cả quyển vở 100 trang chi chít chữ, những chữ nhòe nhoẹt nước mắt. Nếu không có ngày 30 tháng 4 1975 tôi đã không đọc được những dòng ấy.
Tôi viết có lẽ vì thừa hưởng chút gì từ Bố tôi, ông có một tủ sách, trong đó là những quyển sách ông tự đóng lấy, gáy cứng dầy, ghi lại chi tiết từng khoảng đời ông đã trải – từng mối chân tình ông đã có – ai là người ông yêu – ai là người ảnh hưởng đến cuộc đời của ông nhiều nhất!
Bố tôi hiền lắm, lòng ông là một tấm vải nhung mềm mại, ông muốn bọc tất cả mọi thân yêu trong nó, ông không ghét hờn giận bất cứ ai . Tôi yêu Bố tôi lắm, không chỉ là người sinh thành ra tôi, ông còn là thầy là bạn là nơi tâm hồn tôi ẩn náu khi gặp bất trắc.
Tôi còn nhớ bao lần tôi đựoc Bố cho đi ngắm trăng, thuở lên sáu bảy tuổi, mười ba, rồi Mẹ mất Bố con tôi đi dạo ngắm trăng, tôi kể lê/ cho Bố nghe đủ chuyện

