Tự tình Hoài Cổ Đại Hội Champa 2007

Hoài Cổ Bước tới đèo ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá, đá chen hoa Loanh quanh dưới núi tiều vài chú Lác đác ven sông chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Đau lòng mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta.

Bỗng dưng cả bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan hiện ra trong óc tôi một cách nhẹ nhàng thông suốt, trên đường về nhà, sau khi tham dự ngày Đại Hội Champa 2007 được tổ chức vào hai ngày 7 và 8 tháng 7 năm 2007 tại Le Petit Trianon Theatre, trên đường số 5 thành phố San Jose. Tôi biết có đại hội này không qua báo chí, mà qua diễn đàn của các anh Trần Lục. Lâu nay việc gia đình giữ chân tôi ở nhà nhiều hơn ra phố để dự hội. Tôi tò mò khi đọc “Đại Hội Champa 2007 – Vấn đề văn hóa xã hội Champa 175 năm sau khi vương quốc này bị xóa bỏ trên bản đồ (1832-2007).” (Conference on Champa 2007 – Socio-cultural Issues of Champa 175 years arter its disappearance 1832-2007) Nhất là qua những câu chuyện trà dư tửu hậu, người ta hay kháo với nhau về chế độ mẫu hệ của dân tộc Chàm.

Cả hội trường đông đúc, trên lầu là phòng ăn, bên dưới là phòng hội thảo, các diễn giả là các chuyên gia của các trường đại học, các nhà nghiên cứu về Champa cùng các đại diện của cộng đồng Chàm ở Việt Nam, Cam Bốt, Mã Lai, Châu Âu và Hoa Kỳ. Tôi ngồi kề bên ông Cao Văn Đệ tên này được đặt vì ông cao, văn là chữ lót cho con trai và Đệ là phiên âm của David, ông tự giới thiệu như thế, ngoài ra vì nghiên cứu về dân tộc Chàm sống trên đất Việt Nam, ông có thêm tên Che Sah Binu. Ông David Griffiths Sox là một diễn giả trong ngày hội này. Dĩ nhiên tôi hỏi lung tung về “mẫu hệ” là thế nào? Quyền lợi “mẫu hệ” ra sao? Được gì mất gì, tốt hay xấu giữa mẫu hệ và phụ hệ. Bốn câu trả lời tôi nhận được là bốn câu hoàn toàn khác nhau. Tôi hỏi một phụ nữ trung niên, câu trả lời: “Mẫu hệ là có con theo họ mẹ.” Hỏi một ông già lão: “Mẫu hệ là tôn sùng Mẹ, người sanh sản ra dân tộc.” Hỏi một cô tre trẻ: “Mẫu hệ là đàn bà có quyền nhiều hơn đàn ông.” Hỏi một anh trung niên: “Mẫu hệ là con gái đi cưới con trai.”

Tôi gặp anh Từ Công Phụng, anh còn mệt mỏi sau cuộc giải phẫu hơn một tháng trước, anh nói cho tôi nghe, mẫu hệ là con gái đến nhà con trai để hỏi cưới chồng, nhưng con cái vẫn phải theo họ của cha. Muốn biết về phong tục tập quán của dân tộc Chàm có lẽ tôi phải bỏ rất nhiều thời gian để tìm đọc sách, tìm đọc các nghiên cứu trong thư viện, chứ không thể nào tìm được trong các cuộc lễ hội thế này, vì chủ đề của đại hội chỉ nói đến văn hóa sau khi quốc gia đã bị xóa tên sau 175 năm.

Nói đến dân tộc Chàm (Champa) là nghĩ ngay đến Châu Ô – Châu Lý, nghĩ đến nàng công chúa Huyền Trân, nghĩ đến chuyện tình huyền thoại Huyền Trân-Trần Khắc Chung. Lịch sử muốn được nhớ, được nghĩ đến người ta thường hay dựng nên huyền thoại, người đương thời đôi khi viết truyện dã sử, dùng tên nhân vật có thật rồi thêm thắt theo ý mình, dựng thêm những tình tiết éo le lãng mạn, người đọc đôi khi không để ý cứ thế kể lại cho con cháu nghe theo ý của người đọc, lâu ngày chày tháng câu chuyện lịch sử bỗng trở thành câu chuyện tình diễm lệ có thể đóng thành phim.

175 năm sau ngày quốc gia Champa bị xóa tên trên bản đồ lịch sử, con cháu giòng tộc Champa đang cùng giòng Việt tộc phiêu du trên đất Mỹ tổ chức đại hội, tìm về văn hóa xã hội bản sắc riêng của dân tộc mình là điều thật đáng kính phục. Hơn một thế kỷ xương cốt tiền nhân đã thành bụi, những tháp Chàm u uẩn đứng chơ vơ trên những đoạn đường quốc lộ ngang qua Phan Thiết, Nha Trang. Có vào Tháp Bà Nha Trang xin xâm một lần hẳn không thể nào quên không khí lành lạnh buồn buồn từ trong tháp phả ra, mùi khói hương trầm uất, như than vãn “Hận Đồ Bàn” day dứt.

Tôi đứng giữa những phụ nữ mặc lễ phục Chàm, chiếc áo dài kín tà, thay vì xẻ tà cao lên đến eo thành chiếc áo dài Việt Nam, người có đội khăn, người không, những chiếc khăn quàng phủ hết mái tóc, duyên dáng quàng quanh cổ. Phần các ông mặc chiếc áo bà ba vạt khách, tôi hỏi thăm một ông trong ban tổ chức, ông mặc áo có kết nút vải như áo người Trung Quốc: “Có phải đúng là áo của người Chàm mặc ngày xưa không?” Ông cười trả lời: “Không phải đâu, thêm nút tàu này, chỉ cho đẹp thôi.”

Champa là nói chung các chủng tộc: Chăm (Chàm) và những sắc dân Tây Nguyên như: Jarai, Edhé, Chru, Raglai, Bahnar, Sédang, Ma, Kaho, Stieng. Tôn giáo của Chàm pha trộn giữa Ấn Độ giáo và Hồi giáo từ thế kỷ thứ XI. Bây giờ thì tôn giáo chính là Hồi Giáo. Trôi nổi sau bao nhiêu thế kỷ, nỗi lòng của dân Chàm vẫn đau đáu mong chờ một ngày toàn tộc Chàm họp lại cùng nhau.

Tôi không hiểu ngôn ngữ người Champa pha trộn thế nào, nhưng trong ngày hội, khi anh Ramh Dock lên sân khấu trình diễn hai nhạc cụ, được anh tự chế tạo bằng tre tại tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ anh đã phải dùng Anh Ngữ. Tiếng Việt cũng được dùng loáng thoáng, khi tôi không hiểu rõ điều mình được trả lời. Chương trình văn nghệ thật phong phú, qua các vũ điệu nhịp nhàng, trong trang phục đầy màu sắc, tôi biết các em đã bỏ rất nhiều công sức để tập dượt. Các bài hát tôi được nghe, thanh âm buồn rầu, âm điệu vời vợi giống như những bài hát thời chinh chiến của Việt Nam, bất ngờ bài “Nỗi buồn Châu Pha” ngọt lịm cất lên chứng minh cho điều tôi suy nghĩ: Ngờ đâu tâm tư nàng đã trót ôm một nỗi buồn. Chiều mưa rơi rơi, nàng hay đứng âm thầm nhớ ai… Nhưng rồi một hôm nao, chim rừng lại ríu rít Đón anh chiến sĩ về thăm buông làng, núi đồi. Rượu cần lại mang thêm ra, rừng vàng rộn vui câu ca. Đêm liên hoan, Châu Pha như hoa xinh đẹp nụ cười sáng ngời À thì ra Châu Pha đã để ý thương anh lính trận. Chiều nao qua buông, cùng sơn nữ duyên nồng thắm trao. Bà con thường trêu Châu Pha, niềm riêng thường hay dấu kín. Nhưng nay ai ai cũng hiểu nỗi buồn Châu Pha. (Lê Dinh)

Như đã nhắc ở trên, trong chương trình văn nghệ này, đàn t’rưng tôi đã nghe đã thấy, âm thanh tạo ra từ các ống tre dài ngắn khác nhau, còn đàn g’ong là lần đầu tôi thấy, nó giông giống như cây đàn cò, nhưng có nhiều dây hơn, các đọan dây dài ngắn và nhất là hai trái bầu khô, được dùng như thùng đàn tạo nên âm thanh trầm đục. Ban tổ chức chỉ cho anh Dock đúng năm phút quá ít ỏi để giới thiệu về loại nhạc cụ Tây nguyên này thật là đáng tiếc, anh đã được phần thưởng tại tiểu bang North Carolina, từ các nhạc cụ này.

Tôi không dám viết về một văn hóa, một đặc tính dân tộc, tôi chỉ dám nhìn ngắm nét đẹp “hoài cổ” sau 175 năm, tìm đến họp lại cùng nhau, nhắc nhở đến tiền nhân, ôn lại lịch sử. Tôi ngắm sự tương kính của thế hệ trẻ đến các bậc trưởng lão, tôi nghe tiếng kêu: “Ông – Cậu” những vái chào những nụ cười rạng rỡ, có lẽ còn vướng vất đâu đó nỗi hờn trách Đại Việt đã cố tình xóa đi chủng tộc Champ từ thời vua Minh Mạng trong câu: “ The year 1832 brought great tragedy to Champa. After wiping the country off the map, Emperor Minh Menh pursuued a policy of ethnic cleansing toward the defeated peoples.”

Trong sự suy nghĩ rất “đàn bà” của tôi, “dân tộc có nhiều anh hùng là dân tộc đau khổ” tôi không nhớ câu nói của ai, nhưng nó đúng qúa, dân tộc giàu có sung sướng như dân tộc Mỹ, anh hùng của họ là anh chàng đá banh, anh chàng ném bóng. Người chiến thắng tiếp tục lăn cỗ xe lịch sử, kẻ chiến bại tìm đến với nhau để nuối tiếc thời vàng son và ngậm ngùi nhắc nhở quá khứ “hồn về trên tháp ma.” Chỉ sau 32 năm lìa quê cha đất tổ, văn hóa xã hội trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại đã có những thay đổi, thì sau 175 năm mất nước, sự tìm về bản sắc dân tộc đặc thù, còn gập ghềnh gian khó đến đâu. Họp lại cùng nhau để cùng thảo luận một vấn đề, đã là triện son đóng dấu cho ngày lễ hội Champa 2007.

1. Về Nội dung và Chủ đề

  • Tính chân thực và cảm xúc: Bài viết có tính chân thực cao, thể hiện những quan sát, thắc mắc và cảm xúc cá nhân của người viết tại đại hội. Việc bắt đầu bằng bài thơ Qua Đèo Ngang tạo một không khí “hoài cổ,” “buồn bã” và “cô độc,” rất phù hợp với chủ đề về một dân tộc đã mất đi quốc gia.
  • Chủ đề đa chiều: Bài viết không chỉ đơn thuần là tường thuật sự kiện mà còn đề cập đến nhiều khía cạnh:
    • Lịch sử: Sự kiện Champa bị xóa tên (1832), công chúa Huyền Trân, Châu Ô – Châu Lý, “Hận Đồ Bàn.”
    • Văn hóa – Xã hội: Chế độ mẫu hệ (với nhiều luồng ý kiến khác nhau), trang phục, âm nhạc (đàn t’rưng, đàn g’ong), tôn giáo (Ấn Độ giáo, Hồi giáo).
    • Tình cảm dân tộc: Nỗi niềm “hoài cổ,” mong muốn “họp lại cùng nhau,” sự kính trọng tiền nhân, nỗi “hờn trách Đại Việt.”
  • Điểm mạnh (thông tin): Người viết đã khéo léo đưa vào các chi tiết cụ thể như tên đại hội, địa điểm, thời gian, tên một số diễn giả (Cao Văn Đệ/David Griffiths Sox), nhạc cụ (t’rưng, g’ong), lời bài hát Nỗi buồn Châu Pha… Những chi tiết này giúp bài viết giàu thông tin và sinh động.

 

2. Về Bố cục và Cấu trúc

 

  • Mở bài (ấn tượng): Bắt đầu bằng việc trích dẫn trọn vẹn bài thơ Qua Đèo Ngang và sự “bỗng dưng hiện ra” trong tâm trí người viết là một cách dẫn dắt tinh tế, tạo ra một tâm trạng hoài niệm, cô đơn, rất ăn nhập với câu chuyện lịch sử bi thương của Champa.
  • Thân bài (phân luồng hợp lý): Các đoạn được sắp xếp theo các chủ đề: cảm hứng tham dự $\rightarrow$ bối cảnh đại hội $\rightarrow$ tìm hiểu chế độ mẫu hệ (nhiều ý kiến) $\rightarrow$ lịch sử/huyền thoại $\rightarrow$ cảm nhận về trang phục/người tham dự $\rightarrow$ văn nghệ/âm nhạc $\rightarrow$ tổng kết cảm xúc. Cách sắp xếp này giúp người đọc dễ dàng theo dõi.
  • Kết bài (sâu sắc): Kết thúc bằng suy nghĩ cá nhân về “dân tộc có nhiều anh hùng là dân tộc đau khổ” và sự trân trọng đối với nỗ lực tìm về bản sắc dân tộc sau 175 năm, mang đến một thông điệp mạnh mẽ và đáng suy ngẫm.

 

3. Về Ngôn ngữ và Phong cách

 

  • Giọng văn: Giọng văn tự nhiên, chân thành, giàu tính suy tư và cảm xúc. Người viết thể hiện rõ vai trò của một người quan sát, một “khách vãng lai” tò mò nhưng đầy tôn trọng.
  • Từ ngữ: Sử dụng nhiều từ ngữ gợi cảm, mang tính hoài niệm, ví dụ: “nhẹ nhàng thông suốt,” “trà dư tửu hậu,” “huyền thoại,” “éo le lãng mạn,” “u uẩn,” “day dứt,” “thanh âm buồn rầu, âm điệu vời vợi,” “triện son đóng dấu.”
  • Lối trần thuật “nhập vai”: Người viết thường xuyên sử dụng ngôi thứ nhất (“tôi”), trực tiếp đặt câu hỏi và ghi lại câu trả lời (về mẫu hệ), điều này làm tăng tính sống động và tính cá nhân của trải nghiệm.
  • Sự lồng ghép trích dẫn: Việc đưa ra ý kiến của một số người Chăm về mẫu hệ, lời bài hát Nỗi buồn Châu Pha, và đặc biệt là câu trích dẫn về vua Minh Mạng bằng tiếng Anh (dẫn đến sự suy nghĩ về “hờn trách Đại Việt”) là những điểm nhấn mạnh mẽ, mở rộng biên độ cảm xúc và thông tin của bài viết.

 

4. Góp ý nhỏ

 

  • Tính nhất quán của thông tin: Đoạn viết về mẫu hệ có bốn ý kiến khác nhau, và ý kiến của nhạc sĩ Từ Công Phụng lại hơi mâu thuẫn (“con cái vẫn phải theo họ của cha”). Người viết đã khéo léo xử lý bằng cách kết luận rằng “không thể tìm được trong các cuộc lễ hội thế này,” nhưng nếu được, nên dành thêm một chút không gian để phân tích thêm về sự phức tạp (và có lẽ là sự thay đổi) của chế độ mẫu hệ Chăm trong cộng đồng lưu vong.
  • Đoạn về “chủng tộc Champa”: Việc liệt kê “Champa là nói chung các chủng tộc: Chăm (Chàm) và những sắc dân Tây Nguyên như: Jarai, Edhé, Chru, Raglai, Bahnar, Sédang, Ma, Kaho, Stieng” là một thông tin quan trọng nhưng cần được làm rõ hơn về bối cảnh lịch sử/văn hóa. Trong bối cảnh đại hội, nhóm nào là nhóm chính tham gia và được nhắc đến nhiều nhất?

Tóm lại: Đây là một bài viết hay, giàu cảm xúc và thông tin, thể hiện được sự kính trọng đối với văn hóa Champa và nỗi niềm bi thương của một dân tộc. Bài viết đã thành công trong việc kết nối cảm xúc cá nhân với một sự kiện văn hóa – lịch sử mang tầm vóc lớn.

Bình luận về bài viết này