Chuyện Tình . . . Ép Chuối!

Cũng tại Facebook mà ra, cũng tại khoe khoang mà ra, dự tiệc nhà cô bạn khéo léo cho ăn món chuối nướng nước dừa về nhà còn thèm, chạy ra chợ mua ngay ba nải chuối hườm hườm xấu xí giảm giá về hí hoáy làm theo ý mình nghĩ thay vì đợi bạn chỉ cách làm! Dĩ nhiên làm có chụp hình và khoe khoang ra vẻ ta đây gì cũng biết . . . thế là nhận được tin . . . hỏi han: “Có phải . . . !”
Chuyện nhận tin hỏi han kiểu này rất dễ bị “gài” để bị mất trang Facebook mình tạo nên và dễ bị “tin tặc chiếm mặt” làm tiền bạn bè thân hữu cho nên:

Nhận thì nhận mà lơ thì lơ – ta không thèm nhận thêm bằng hữu  – nhận thì nhận mà lơ thì lơ – à hát theo giọng quan họ Bắc Ninh á nha!

Nhưng rồi thêm tin nữa là đoạn viết đã đăng tứ lung tung:
“Hồi đó đi học kèm mùa Hè vui lắm, sáng đi bơi, trưa về đi học. Mười bảy bẻ gẫy sừng trâu, chắc mười sáu phải ăn cho đủ sức lớn, nên ăn cơm nhà chưa đủ, phải đi ăn hàng thêm mới không bị kiến bò bụng (đói) khi ngồi học. Từ lớp học phải băng qua đường Nguyễn Biểu mới đi ăn hàng được. Hàng ăn bán ê hề trước cổng trường Thánh Linh. (Từ Nguyễn Trãi, quẹo vào Nguyễn Biểu hướng lên cầu chữ Y, rẽ phải là gặp trường này, rẽ trái là đến trung tâm Khuyến Học). Đến lớp, dựng xe đạp xong là rủ ngay Phượng, Nhung, Cầu chạy ngay cho kịp. Nào là bột chiên của chú Sáng người Hoa, hai tay chú dùng hai cái xẻng, lật những miếng bột vuông, hình con cờ trên chảo chiên như múa. Hàng đậu đỏ bánh lọt có những hũ đậu xanh, đậu đỏ, đậu trắng thật thèm, thêm cái máy bào đá bằng tay, mỗi lần chị bán hàng xoay tay quay, cục nước đá bị bào làm văng tuyết ra chung quanh thật đẹp. Hai món này vẫn không quyến rũ bằng hàng chuối nướng nước dừa.. Món chuối nướng này đặc biệt lắm. Bà bán có nguyên quầy chuối sứ vừa hườm chín, vỏ còn xanh, một cái vỉ đựng than hồng nổ lép bép. Bà xếp những trái chuối đều đặn trên vỉ, lật qua lật lại đến khi vỏ chuối mọng lên, bà bốc chuối ra, cho vào tấm thớt ép nó dẹp lại, lột vỏ rồi lại bỏ lên vỉ, lại nướng, học trò đã đến giờ vào lớp, chuối nướng vẫn chưa xong, năn nỉ: “Dì lấy nó ra đại đi, chát chút cũng được mà ?”

rồi viết vầy nè: Sau đó là không cần chờ mà đến là có ngay đúng không?

Chao ơi, câu chuyện đã vào thời cổ tích được nhắc đến từ tên đường Trần Bình Trọng –  Nguyễn Biểu đến Phan Văn Trị,  nhà thờ Chợ Quán trường Thánh Tâm trường Thánh Linh Thiên Phước , nói chuyện nhớ quên đầu đuôi chẳng còn mạch lạc,  hơn 50 năm rồi còn gì ? Thuở đi học thêm thuở “bẻ gẫy sừng trâu” đã qua từ lâu lắm bây giờ muốn bẻ vỏ trái bắp còn phải kêu gọi tứ phương!  

Ai?  Sơn hay Thành? Không chẳng là Sơn cũng không là Thành! Vậy . . . 

Là người lột chuối cho má bán, rồi làm sao mà  . . . thì đường Phan Văn Trị thì trường Khuyến Học là căn nhà đôi của nhà bà  Bắc mẹ của Thành mặt mụn và chỉ có một bà bán chuối nướng gần ngay đó chứ sao!  Nhắc lại con nhỏ hồi đó đen thui khi nào đến mua cũng hối:  “Dì lấy nó ra đại đi, chát chút cũng được mà ?”
Nghe giọng nhão nhẹt mà rền vào đến trong nhà, ló mặt ra ngó coi nó ra sao, nó mặc cái áo  áo sơ mi trắng bên trong cái đầm có hai quai đeo sọc trắng xanh lợt màu mây,  tóc còn ướt miệng tía lia năn nỉ thật là tức cười! Khi đọc đoạn văn tui nhớ ngay hồi đó tui nói với má nướng sẵn để đó cho tui, khi nào nó ghé  năn nỉ là tui nói má tui nhường cho nó phần của tui, tui ăn sau cũng được!
– Trời đất rồi giờ ở đâu? 
– Ở Việt Nam chứ đâu?
– Biết gì về Thành không?
– Không, thay đổi hết rồi, tui giờ cũng già chát rồi, con cháu lớn hết ráo đâu có đứa nào biết cái món chuối nướng than bà nội nó mần hồi đó nuôi tui đi học đâu?  
– Ừa! tui cũng có nhớ thấy loáng thoáng người con trai mang quầy chuối ra ngoài hiên cho Dì nướng tiếp mà có nhớ rõ mặt mũi chi đâu nè, làm như mắc cở hay sao mà khiêng ra giục xuống quày quả vô nhà lại liền! 
– Cả đám con gái ngồi ăn hàng tui con trai mắc chi cho ngó mặt tui.
– Trời ơi! Vậy là đọc rồi nhận ra người ăn dành ăn giựt chuối  nướng hồi xưa rồi tính đòi nợ gì đây Trời !
– Đòi chi đâu, nhắc kỷ niệm xưa là trẻ lại 50 tuổi cảm ơn không hết chứ có đòi chi đâu,  viết về Má tui dù thoáng qua chứ cũng làm tui cảm động ai mà nhớ món ăn nghèo nàn quê mùa miền Tây mà người nhắc là người miền Bắc nữa chứ, tui nhớ hồi đó tui đọc câu :”Con gái Bắc điêu ngoa giả bộ ngoan hiền” nghe cái giọng là tui nể né liền, thiệt ra tui cũng ngóng mỗi ngày coi nó có tới là tui kiếm chuyện ra nói cho Má tui nhường phần cho nó!

Thôi thì cho tui cám ơn dù muộn chút nghe anh Vô Danh, tui cho anh cái tên Vô Danh trong  kỷ niệm của tui, nói đến kỷ niệm là trẻ mãi không già anh Vô Danh nhé, tui lai người miền Nam lậm lắm rồi, tui sinh trong miền Nam sau 1954 anh chắc hơn tui một hay hai tuổi là hết cỡ rồi ha, vậy là người muôn năm cũ cũng đâu có xa chi đâu anh ha! 

Tui mới làm chuối nướng mà không có than, nhìn giống xưa chút chút nhưng ăn thì vô duyên không tả được – có lẽ nỗi nhớ không tạo nổi cái duyên mặn mà của nước cốt dừa phải chính tay mình nạo  dừa khô vắt lấy cốt, nấu trên lửa thêm chút hành lá rồi chan lên trái chuối hườm bị ép chín bằng than ửng hồng  không lên ngọn, trời ơi vị ngọt dịu dàng biết tả sao cho hết đây anh, vậy nghen mai tui khoe với bàn dân thiên hạ chuyện “tình” chuối ép, nó cũng là tình nếu không làm sao mà nhớ tới vậy chứ!   

 

It’s also because of Facebook, and also because of showing off, attending a friend’s party, where she cleverly served grilled banana with coconut water. I craved it so much when I got home that I immediately ran to the market to buy three bunches of ugly, discounted bananas. I tried to make it myself instead of waiting for my friend to show me how to do it! Of course, I took photos and showed them off, acting like I knew everything… and then I got a message asking, “Is it really…?”

Receiving this kind of message can easily lead to getting “hacked” and losing access to your Facebook account, or even having “hackers” scam your friends and family, so:

When you get the message, just ignore it – I won’t accept any new friends – when you get it, ignore it – oh, and sing it like the Quan Ho Northern folk songs!

But then another message came through, a post that was scattered everywhere:
“Back then, summer classes were so much fun. In the morning, we went swimming, and in the afternoon, we went to class. At seventeen, you’re strong enough to bend the buffalo horn, and at sixteen, you have to eat well to grow strong, so rice at home wasn’t enough, I had to eat out so I wouldn’t feel hungry during class. From the classroom, you had to cross Nguyen Bieu Street to go eat. The street vendors were plentiful in front of the Saint Linh School gate. (From Nguyen Trai Street, turn into Nguyen Bieu towards the Y-shaped bridge, turn right to find this school, or turn left to reach the Education Center). When we arrived at class, we’d park our bikes and immediately call Phuong, Nhung, and Cau to rush out to eat in time. There was fried dough from Uncle Sang, a Chinese man, who used two spatulas to flip the square dough pieces in the frying pan like he was dancing. There was a red bean and lotus cake stall with jars of green, red, and white beans, so tempting, plus a hand-cranked ice shaving machine where every time the seller spun the handle, the shaved ice would fly everywhere, looking so beautiful. But nothing was more irresistible than the grilled bananas with coconut water… These grilled bananas were so special. The seller had a whole stall of ripe bananas with still green peels, a charcoal grill that crackled with hissing sounds. She would arrange the bananas neatly on the grill, flipping them over until the peels became puffy. She would then pick them up, press them flat on a cutting board, peel them, and put them back on the grill, grilling again. By then, the students had to go back to class, but the grilled bananas were still not done. They’d beg, “Aunt, just take it out now, it’s fine if it’s a little burnt, right?”

Then the post went like this: After that, you didn’t have to wait anymore, you could just show up, and it would be ready, right?

Oh my, this story has become like a fairy tale, mentioned from the streets of Tran Binh Trong, Nguyen Bieu to Phan Van Tri, the Church of Cho Quan, the Saint Tam and Saint Linh schools, reminiscing with so many forgotten details, over 50 years ago, right? The days of extra classes and the “buffalo horn bending” are long gone. Now, even breaking the shell of a corn cob requires calling for help from all directions!

Who? Son or Thanh? No, it wasn’t Son, and it wasn’t Thanh! So…

It was the person peeling bananas for his mom to sell, and how… then Phan Van Tri street and the Education Center were near Mrs. Bac’s house, the mother of Thanh, a guy with acne, and there was only one lady who sold grilled bananas near there! I remember that little girl, so dark-skinned, always hurrying when she came to buy, saying, “Aunt, just take it out now, it’s fine if it’s a little burnt, right?”

I remember when I read this part, I immediately thought back to when I told my mom to grill the bananas in advance, and when she begged, I’d tell my mom to give her my portion, I’d eat later!

  • Where are you now?
  • In Vietnam, of course.
  • What do you know about Thanh?
  • I don’t know, everything has changed now. I’m old, and all my kids are grown. None of them know about the grilled banana with coconut water that my mom used to make to send me to school!
  • Yeah! I also vaguely remember seeing a boy carrying the banana stall outside for Aunt to continue grilling, but I don’t really remember his face. It seemed like he was shy, so he quickly moved the stall inside!
  • Why should I look at you? All the girls were sitting eating, and I was a boy!
  • Oh my, so after reading it, I realized the person who used to snatch the grilled bananas was asking for something now, right?!
  • What to ask for? I’m just reminiscing about the old times, feeling like I’m 50 years younger, thanking you so much. I’m not asking for anything. Writing about my mom, even briefly, made me so touched. Who would remember such a simple, poor dish from the countryside, and the person recalling it was from the North! I remember back then, I read the line: “Northern girls are tricky, pretending to be gentle,” and when I heard that voice, I immediately avoided them. But really, I used to look forward to every day, waiting to see if she’d come so I could make my mom give her my portion!

Well, let me thank you, even though it’s a bit late, Mr. Anonymous. I’ll give you the name “Anonymous” in my memories. When it comes to memories, I’ll forever remain young, Mr. Anonymous. I’ve been a southerner for so long now. I was born in the South after 1954, and I think you’re probably one or two years older than me, so the people from the past aren’t really far away, right?

I just made some grilled bananas without charcoal. They look a little like the old ones, but the taste is so off—it’s probably the nostalgia that can’t recreate the magic of fresh coconut milk, which you have to grate yourself, squeeze out the juice, cook it with a little green onion, and then pour it over the banana, which is pressed and grilled on red-hot coals. Oh my, the sweetness is indescribable. Tomorrow, I’ll show the world the “love” of pressed bananas. It’s love, isn’t it? How else could I remember it so clearly?

Chiều Về Trên Sông

“Những nốt nhạc chơi vơi, lơ lửng nghe thấy trong “Chiều về trên sông”. Chiều buông trên dòng sông Cửu Long… Không phải “chiều xuống” hay “chiều rơi” hay “chiều trôi” mà… chiều buông, nghe như là màn sương chiều lướt thướt, như là vạt áo choàng mềm mại của chiều tà đang chầm chậm phủ trùm lên một vùng sông nước mênh mông. Như một cơn ước mong, ơi chiều!… “Cơn ước mong” ấy đọc được trong những dòng hồi ký phơi trải nỗi niềm của người nhạc sĩ: “Tôi nhớ đồng quê, tôi nhớ thiên nhiên vô cùng. Tôi tìm mọi cách để ra đi. Rồi tôi có những buổi chiều ngồi bên dòng sông Cửu Long: Chiều buông trên dòng sông Cửu Long như một cơn ước mong, ơi chiều! … để mong được như ‘hàng cây gỗ rong, nghiêng mình (trôi) trên sóng sông yêu kiều’ Tôi còn muốn theo đò ngang quá giang, thương chiều…” (3) “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang”

Lê Hữu @https://phamduy.com/en/viet-ve-pham-d…

Mai Ơi

Từ lúc nào mai bước vào đời sống tôi. Mỗi cuối năm, ngày cận Tết, thế nào trong nhà  cũng có một nơi thật trang trọng cho gốc mai. Thường thì ngay góc nhà, nơi có bộ bàn ghế để tiếp khách. 

Cứ nhiều năm như thế, không nhớ từ bao giờ Tết với tôi là nụ mai. Tết với tôi là được theo ba đi lựa gốc mai. Gốc phải thật to cứng mạnh, cành phải thật mảnh thon gầy, dáng phải thanh mềm mại và nụ phải  xanh mướt  

Có một năm hai cha con đi đốn mai, vườn mai trên Thủ Đức, nhà bạn của ba. Gọi là vườn không đúng lắm, khu đất ấy rất rộng, lại gần khu quân sự nên trở thành đất hoang, mai mọc như rừng. Những thân cây nhìn như khô mục, màu nâu, lá còn lá mất, bạn ba nói:  “phải chọn những thân to, tuổi cây đã chín, nhìn những kẽ nứt nụ để đoán hoa đẹp hay không ?”  Hai ông nói chuyện, tôi ngây người nhìn chung quanh, cây khô héo cách chi bung hoa ngày Tết. Thế mà năm ấy nhà tôi có cây mai đẹp không sao tả được. Trong chiếc lục bình cao gần đến ngực  tôi, cành mai vươn đụng trần nhà, nụ ơi là nụ, những chùm nụ xanh biếc. Được uống đủ nước, nụ mai mỗi ngày mỗi căng mọng. Ngày nào ba tôi cũng xăm soi ngắm nghía, ông cho chị em tôi treo vài phong bao lì xì màu đỏ lên nhánh thấp nhất, ông mời các bác hàng xóm cùng sang ngắm nghía với ông. Ngày gốc mai được chở về nhà, hàng xóm ai cũng thích, ai cũng ước ao có một gốc mai khỏe như thế.

Ngày ba mươi tháng chạp, tất cả nụ mai như  hẹn nhau, cùng  nở mừng Xuân hay sao mà màu vàng đã nhô ra khỏi  nụ. Dù nôn nao áo dài mới, hài cườm tôi vẫn không quên ghé mắt thăm chừng những chiếc nụ con con ấy. 

Giao thừa thoang thỏang hương trầm, se se gío lạnh lùa qua khung cửa,  không gian lặng im chờ đón, những nụ mai len lén nở bung. Từ dưới gốc, trên nhành cao, màu vàng rực rỡ yêu kiều ngự trị. Hoa vàng mười cánh, mười hai cánh, hoa bé nhất cũng tám chín cánh, những nụ mai chưa nở không tỏ vẻ gì xấu hổ, lại còn ngạo nghễ hơn nữa như hẹn hò đợi ngày khoe sắc, xem ai thắm hơn ai?  Gốc mai năm ấy, màu mai năm ấy đẹp như chiếc áo lụa vàng tôi khoác lên người đêm trừ tịch. Chiếc áo lụa vàng có hoa văn lá trúc.

Nhớ một mùa Xuân không còn ba tôi nữa, vẫn áo lụa vàng hoa văn lá trúc, sáng mồng một Tết cùng anh xuất hành đón Xuân. Mùa Xuân năm ấy lặng lẽ ngủ vùi ảm đạm, không pháo không hoa, không bánh chưng xanh không dưa hấu đỏ, người người buồn bã chuyện chia ly, tù tội, mất còn. Vườn chùa vắng vẻ, tiếng chuông mõ thảng hoặc gióng lên vội vã, vài con bướm ngẩn ngơ tự hỏi, người xưa đâu, Xuân xưa đâu ? Lặng lẽ cội mai già chết mục trong góc sân cố nở vài hoa. Hình ảnh đóa mai ấy luôn ẩn hiện trong ký ức của tôi. Từ gốc mai đã chết, một nhành thật mong manh xót lại, nở hoa. Trong tột cùng tuyệt vọng, hy vọng vẫn ươm mầm.

Hôm nay, hơn nửa vòng địa cầu, người ta đang ngóng chờ một ngày Xuân. Sự ngóng chờ biểu hiện qua những quảng cáo về những chương trình hội Xuân đi chung với các chương trình văn nghệ. Những bài hát Ly Rượu Mừng, Xuân Ca, Xuân Họp Mặt lại được phát thanh vang vang, mỗi năm lòng tôi mỗi nhạt nhòa đi hình ảnh cũ xưa dù nhớ nhung vẫn còn phảng phất.

 Tôi và chắc chắn nhiều người khác nữa đã tìm kiếm gốc mai xưa, tìm kiếm lại những hồi ức quá khứ, từ những lá rau thơm đến cả những hoa những lá biểu trưng về quê mẹ xa vời, Mai Lan – Cúc – Trúc. Cách đây chục năm mai là mai tứ quý, lá nhỏ hoa rũ, màu vàng nhạt, sau khi hoa tàn là trái có hình như chú chuột Mickey. Mai bây giờ đã là Mai Việt-Nam kiêu hãnh ngước mặt lên trời, nhiều cánh vàng tươi.

Tôi nhớ tôi đã ươm Mai bằng hạt nhớ, hạt hòai niệm, hạt chờ mong. Chiếc hạt con con màu đen bé bỏng, gói trong chiếc phong bì, gởi đến tôi từ quê cha đất mẹ. Tôi trân trọng ươm hạt trong đất tạm dung, hạt nẩy mầm. Mùa lạnh tôi mang hạt vào nhà sưởi ấm, gío bão tôi mang hạt trốn bão cùng tôi. Ngày cây mai non xuất hiện tôi sung sướng biết bao. Ba năm dài đằng đẵng đợi chờ, cây vẫn gầy gò, lá vẫn mong manh yếu đuối. Năm thứ tư, tôi lảy lá dù cây chỉ vài tấc cao, lạ lùng sao cây tặng tôi bao nhiêu là nụ. 

Tôi run rẩy uốn cành, tôi hân hoan bón gốc, mai của quê hương đã đến cùng tôi. Hoa không vàng như nắng Sài-Gòn, cũng đủ an ủi tôi nơi xứ lạ, gốc mai chưa đủ già để khoe gân khoe guốc , nhưng đủ cho tôi biết dù khắc nghiệt đổi thay, mai vẫn tràn đầy sức sống. Mai không nở đúng ngày Tết mặt trăng, hoa theo thì theo mùa Xuân mới, mai vẫn là mai của tôi trong ký ức, đóa mai năm cánh, sáu cánh đơn sơ rạng rỡ ngày nào, đua sắc với hồng với đào xứ lạ. Mai trong tôi vẫn yêu kiều dáng ngọc năm xưa.

Năm nay Mai buồn mai đông đá, không thấy nụ đâu.

For many years now, I don’t remember when exactly, Tet for me has always been the apricot blossom. Tet for me means going with my father to choose a good apricot tree. The tree must be strong and sturdy, the branches must be delicate and slender, the shape must be graceful, and the buds must be a vibrant green.

One year, father and I went to cut apricot trees in a garden in Thu Duc, a friend’s place. Calling it a garden isn’t quite right; the land is vast, near a military area, so it had become vacant land, and the apricots grew like a forest. The tree trunks looked dry and decayed, brown, with leaves scattered here and there. Father’s friend said, “You must choose the large trunks, the ones that have matured, and examine the cracks in the buds to predict whether the flowers will bloom beautifully.” The two men were talking, and I stood there, blankly staring at the surroundings. How could such dry trees bloom during Tet? Yet that year, our house had the most beautiful apricot tree, beyond description. In the tall vase that reached up to my chest, the apricot branches reached up to the ceiling, with buds everywhere, bunches of vivid green buds. With enough water, the buds grew plump and swollen every day. Every day, father would carefully inspect them, and he would ask my siblings and me to hang a few red envelopes on the lowest branches. He also invited the neighbors to come and admire it with him. On the day the apricot tree was brought home, everyone in the neighborhood liked it, and they all wished they had an apricot tree as healthy as that one.

On the thirty-first of December, all the apricot buds seemed to have made a silent agreement, blooming together to welcome the Spring, with the yellow petals just peeking out from the buds. Even though I was eagerly waiting for my new ao dai (traditional dress) and my beaded slippers, I still couldn’t help but glance at those little buds.

On New Year’s Eve, the incense scent lingered, and a chilly breeze would slip through the window, the space around us was still, waiting for the new year to arrive. The apricot buds gently bloomed. From the base to the high branches, brilliant yellow flowers, delicate and graceful, took their place. The flowers, ten-petaled, twelve-petaled, with even the smallest flowers having eight or nine petals, and the unbloomed buds didn’t seem shy at all. They looked proudly like they were waiting to show off their beauty, competing with one another to see who could be the most vibrant. That apricot tree, that year’s flowers, were as beautiful as the golden silk dress I wore on the night of Tet, the golden silk dress with bamboo leaf patterns.

I remember a Spring when my father was no longer with us. I still wore the golden silk dress with the bamboo leaf patterns. On the first day of Tet, my brother and I went out to greet the new year. That Spring was quietly gloomy, with no fireworks, no flowers, no sticky rice cakes, no red watermelon, and everyone was sad over stories of separation, imprisonment, life and death. The temple garden was quiet, and the temple bell rang occasionally, hurriedly, while a few butterflies fluttered, wondering where the old ones had gone, where the past Spring had gone. Silently, the old apricot tree in the corner of the yard died, trying to bloom a few flowers. That image of the apricot flowers always lingers in my memory. From the dead apricot tree, a fragile branch remained, still blooming. In the deepest despair, hope still finds a way to grow.

Today, halfway across the world, people are waiting for the arrival of another Spring. The anticipation is reflected in advertisements about Spring festivals paired with cultural performances. Songs like “Ly Ruou Mung” (Happy New Year Wine), “Xuan Ca” (Spring Songs), and “Xuan Hop Mat” (Spring Reunion) are broadcast, and every year, the image of the past fades a little more, although the longing still lingers.

I, and many others, have been searching for that old apricot tree, seeking the memories of the past, from fragrant herbs to flowers and leaves that symbolize the distant homeland—Mai Lan (Apricot), Chrysanthemum, Bamboo. Ten years ago, apricots were the “Mai Tu Quy” variety, small leaves and drooping flowers, pale yellow, and after the flowers faded, the fruit looked like a little Mickey Mouse. Now, apricots are the proud Vietnamese variety, with many bright yellow petals that face the sky.

I remember planting apricots with seeds of memories, seeds of longing, seeds of anticipation. The tiny black seeds, wrapped in an envelope, were sent to me from my homeland. I cherished planting them in temporary soil, and the seed sprouted. In the cold winter, I would bring the seed inside to keep warm. In the storms, I would protect it with me. The day the young apricot tree sprouted, I was so happy. After three long years of waiting, the tree was still thin, the leaves fragile and weak. In the fourth year, though the tree was only a few inches tall, it miraculously gifted me so many buds.

I trembled as I bent the branches, joyfully fertilizing the roots. The apricot tree from my homeland had come to me. The flowers weren’t as yellow as the sun in Saigon, but they comforted me in this foreign land. The apricot tree wasn’t yet old enough to show off its full strength, but it was enough to remind me that, despite the harsh changes, the apricot tree was still full of life. The apricot tree didn’t bloom exactly on Tet, according to the moon, but it bloomed in the new Spring, and it was still my apricot tree in my memories, with its five or six-petaled flowers that once bloomed brightly, competing with the peach and cherry blossoms in the foreign land. The apricot tree in my heart is still as graceful as it was in the past.

This year, the apricot is sad and frozen, and I don’t see any buds.

 

Hàn Vi và Bạn Hữu


Kevin Le tác giả của quyển sách The Outcast Amerasian được báo chí nhắc đến đã lâu, vì không có nhiều tác giả Việt Nam viết sách bằng tiếng bản xứ trên đất Mỹ – tôi biết đến tên Kevin Le lâu rồi và chẳng mảy may để ý, cho đến khi biết ra tác giả đã sống cùng thời lận đận với tôi, là bạn rất thân thiết với gia đình tôi.
Thuở ấy chúng tôi một nhóm sáu đứa, dĩ nhiên Kevin cùng trong nhóm, đạp xe khắp thành phố Sài Gòn, vào từng hang cùng ngõ hẻm để đến gia đình của một người bạn, người bạn này di cư hầu như mỗi tháng, vì bố là ngụy quân đã bị bắt đi tù cải tạo, nhà ở trong trại gia binh đã bị chiếm bởi cộng sản, may mà có người nhà làm việc trong Nha Điền Địa (bị đổi thành sở nhà đất sau này) biết có những ngôi nhà đã được nhà nước quản lý để làm quà tặng cho những cán bộ có công với họ, những căn nhà trống huơ hoắc vì chủ đã bỏ đi vượt biên, trong thời gian chờ đợi chủ mới, gia đình người bạn này được ở tạm. Những nơi tạm trú này ít bị công an để ý, lúc ấy chuyện đi ở, chuyện kiếm sống từng ngày là chủ đề chúng tôi bàn tính nhiều nhất. Khoảng thời gian lận đận ấy nhìn lại quá “kinh hãi!” Đọc tiếp “Hàn Vi và Bạn Hữu”