Chỉ viết vài dòng ngắn như thế tôi đã viết sai hai lỗi chính tả trên tấm hình tôi dự định gởi tặng cô cách đây rất lâu, tôi đã viết lại trên hình khác và đã gởi đến cô, nên hôm nay tôi còn vết tích để viết về cô giáo đầu tiên của tôi trên đất Mỹ Mrs Linda Vidal.
Hôm nay là ngày lễ Hiền Mẫu, hôm nay tôi biết tin cô giáo Linda của tôi đã không còn nữa.
Sau ba tháng đặt chân đến California năm 1991, tôi xin vào trường dậy nghề CCOC để học. Tuổi đã không còn trẻ, bỏ học đã lâu, lăn lóc với cuộc sống, chữ nghĩa thời xưa tàn dần, tính toán buôn bán chợ trời – chợ phụ tùng xe đạp – làm kế toán cho các tổ hợp một cách “gian dối”, thay vì vào sổ mỗi ngày, tôi chỉ làm việc đôi ba ngày cuối tháng, trước khi phải nộp báo cáo. Ông tổ trưởng và thủ quỹ cho tôi kết toán của các ông muốn, sau đó tôi truy ra các số chi thu trong bảng đối chiếu biểu, bảng lương, con số hoàn toàn không có thật, chỉ cần làm sao được các ông trên Quận ký giấy cho rút tiền cất trong ngân hàng. Để sống còn trong thời gian sau 1975, dân Sài Gòn trở thành ngơ ngác, không biết xoay trở thế nào, mọi việc đơn giản ngày xưa bỗng trở thành “phức tạp” đi ngược trở về thời chậm phát triển để được xem như đang phát triển. Việc trở lại trường học là giấc mơ không bao giờ tôi nghĩ đến.
Bắt đầu đời sống mới trên đất mới bằng con số không, số không tiền bạc và kiến thức. Tôi học sinh ngữ Anh Pháp, nhưng chỉ đọc, viết cho có điểm, học thính thị trong phòng kính của hội Việt Mỹ thì tôi ngồi làm thơ, tôi thù ghét môn học ngoại ngữ vì tôi không thích người thầy dậy tôi môn học ấy, tuổi trẻ luôn có chút chi đó “ngu muội” . Về nhà mỗi lần tôi tập đọc vang nhà thì bị Bố của tôi sửa và chê là “sai bét nhè”, xấu hổ tôi không tập nữa. Bố tôi bắt tôi đi học hè trường anh văn Nguyễn Ngọc Linh với bao nhiêu thầy hay cô giỏi, tôi chán ngán buồn ngủ, gàn bướng tuyên bố “Tiếng Việt học chưa hết, sao lại phải học tiếng người ta!”
Có biết phát âm đúng vài câu, chỉ nhờ mê các bài hát tiếng Anh được nghe qua giàn máy Akai – máy cassette, 1980 nghe tin có thể được sang Mỹ tôi vào học các lớp sinh ngữ ban đêm với bộ sách Streamline, được chụp lại trên giấy vàng xỉn hoen ố, các cô giáo thầy giáo dậy học ai cũng dễ thương, chỉ mỗi tôi là dễ ghét, học mãi không thấm vào đầu, cái đầu chứa bộ óc toan tính sao cho có cơm ăn mỗi bữa.
Vậy đó mà tôi thi thử toán 10/10 và English được 8/10 dĩ nhiên a – b – c khoanh giúp cho tôi chọn câu trả lời đúng, thi vào các lớp dậy nghề quá đơn giản, thi chung với các học sinh trung học tôi chỉ thua chúng cách phát âm, còn toán và văn phạm tôi hơn là việc đương nhiên, nên nhìn kết quả chẳng có gì đáng hãnh diện, toán trình độ cộng trừ nhân chia, anh văn là chào hỏi là những câu rất “đời thường” chẳng dính dáng chi đến ngành nghề tôi muốn học. Và tôi được nhận vào học chương trình phụ tá nha sĩ – dental assittant. Lớp học này chỉ cần 6 tháng ngắn ngủi, sau đó tôi có chứng chỉ đã được đào tạo chuyên nghiệp. Trên báo địa phương lúc ấy ngày nào cũng chiếm 4 cột dọc cần người.
Từ nhà đến trung tâm C.C.O.C học, tôi dùng xe buýt chuyên chở công cộng, tuyến đường dài hơn một tiếng, cộng thêm thời gian đi bộ ra bến xe nữa là một tiếng rưỡi, đi về mất ba tiếng một ngày, cùng tám tiếng học trong trường, ngày của tôi thật ngắn, mùa đông đầu tiên trôi đi nhanh quá, tối tôi ôm quyển tự điển học đến một hai giờ sáng, có thì giờ rảnh cuôí tuần là phải tập lái xe, các con đi học khổ đằng đi học, chồng tôi làm việc ban đêm, sáng về tôi đã đi học.
Nhớ lại khi ấy, không ai hiểu điều tôi muốn nói, có cây bút và tờ giấy tôi ghi chữ xuống người ta hiểu ngay. Bạn bè người thân thuộc quen biết ai cũng bảo tôi phải vào học ESL trước, những lớp học dạy cho người ngoại quốc mới vào định cư tại Mỹ, tôi cũng có vào, nhưng học chán quá, đã nói tôi không thích học sinh ngữ Anh Văn lâu lắm rồi, nay gặp lại to be, to give, to free là mắt tôi nhắm tịt lại.
Ngày đầu vào lớp, có 25 học sinh, gặp cô Linda Vidal, tôi chào tôi nói, cô nhìn tôi với đôi mắt tròn xoe, miệng mỉm cười, nhưng rồi cô cũng hiểu tôi vừa đến Mỹ ba tháng trước, từ một nơi cô thấy nhỏ xíu trên quả địa cầu to bằng trái banh để trong góc phòng, khi tôi quay vòng nó để chỉ cho cô xem. Ngày đâu ngồi trong lớp tôi có nghe, có thấy, nhưng hoàn toàn không hiểu gì hết, trong lòng tôi lo lắng không biết mình sẽ phải học thế nào. Nhìn quanh là mắt xanh tóc vàng, thấy tóc đen, đến làm quen lại là người Phi Luật Tân. Tuần sau đó có cô bé Việt Nam vào học, tôi mừng hơn bắt được vàng, em nhỏ hơn tôi nhiều lắm, người Huế thế là có hai chị em với nhau. Em dựa hẳn vào tôi vì tôi lớn hơn, “giỏi” hơn, giỏi vì tôi biết cách làm cho các bạn trong lớp không cười ồ lên nữa, khi tôi muốn hỏi cô Vidal điều tôi chưa hiểu rõ, cách nhấn giọng lơ lớ, cách phát âm thiếu vần cuối hẳn rất đáng để cười, chưa kể cách phát âm sai khiến chữ mình muốn nói trở thành nghĩa khác hẳn. Tôi về nhà, chuẩn bị tập đọc cho đúng một câu có ý thế này: “Đừng cười ngạo tôi, hãy dậy tôi nói cho đúng ngôn ngữ của bạn, tôi là người mới đến từ một nơi rất xa, phía bên kia quả địa cầu.” Vào lớp, tôi xin cô Vidal cho tôi nói vài điều với các bạn, thế là tôi có hơn hai mươi thầy cô giáo dậy tôi sinh ngữ thực hành, tôi nói chữ nào sai các bạn bắt tôi nói cho đúng, hai chữ p – b khó nhất, tôi cũng tập xong, vần cuối của chữ tôi cũng nhớ thở nó ra, vì người ta hiểu điều mình nói qua làn hơi thở cuối ấy.
Các cô gái các chàng trai xinh đẹp tuổi chưa đến 18, học ít chơi nhiều, cuối tuần mải nhảy nhót làm sao địch lại người phụ nữ tóc đen mắt nâu, nói tiếng anh ngọng nghịu, lại thêm động lực phải xây dựng chiếc tổ mới cho các con. Sau hai tháng ngắn ngủi, tôi là học sinh xuất sắc, điểm 10/10 là thường vì tôi chịu khó học chịu khó viết. Các bài tôi viết được chồng tôi sửa chính tả, sửa câu văn giúp cho, ngày ở Việt Nam trước khi sang Mỹ, chồng con tha hồ học thi TOEFL, nên ai cũng giỏi hơn tôi. Cách học ở Mỹ khác hẳn kiểu từ chương ở Việt Nam, cô giáo cho học sinh biết các mấu chốt của điều cần tìm hiểu, cần biết, sau đó học sinh phải viết bài nộp cho cô biết về điều mình hiểu, mình tìm tòi ra được. Học về răng, các từ ngữ chuyên môn không nhiều, khoảng vài ngàn từ gom hết lại cuối quyển sách, tên gọi xương gân, xoang, tôi tìm cách để nhớ hết, thực tập thì nghề thêu thùa may vá, đan lát giúp các ngón tay tôi khéo léo trong việc khắc sao cho giống chiếc răng, khi trám tạm trên người nộm.
Tôi cố gắng hết sức tôi có để vượt qua khó khăn ngôn ngữ – và cũng để tri ân tất cả các ân nhân đã giúp cho tôi đi học, chính phủ mở trường, cô giáo ân cần tận tâm, cô luôn giúp tôi vào giờ nghỉ, tôi chỉ cần khoanh chỗ nào chưa hiểu hết, cô sẽ chỉ sách cho tôi đọc, cô luôn nhắc tôi phần nào ngày mai cô sẽ giảng, để tôi đọc, ghi chú trước ở nhà, thời gian ngồi trên xe buýt cũng là thời gian cho tôi ôn lại bài học buổi tối. Cô Elizabet giúp tôi làm đơn xin học bổng, số tiền không nhiều, nhưng mỗi tháng tôi có vài trăm đồng để ăn vặt – để di chuyển, món tiền ấy được cho từ các vị hảo tâm đã từng học tại trường. Mỗi khi học xong một phần của chương trình, kết quả A tôi lại nhận thêm quà từ các vị hảo tâm khác, tôi không nhớ rõ ai vào ai, vì học đã khó nhớ tên và tiểu sử của từng nhân vật lại càng khó hơn, tôi chỉ biết nhủ lòng tri ân bằng cách đạt được điểm cao hơn, không phung phí những vật dụng thực tập, từ phim chụp XR đến tất cả các loại xi – măng, loại thuốc dùng để trám để chữa tủy răng. Tôi nhớ hoài cô Vidal bảo các bạn học đến hỏi tôi khi có thắc mắc, cô gọi tên tôi Như Hoa thật nhẹ nhàng, tôi nhớ có lần trước khi về tôi chào cô ” have a nice day” cô nhìn tôi bắt tôi lập lại chữ nice với âm s ở cuối rồi nháy mắt: “Như Hoa quên âm cuối rồi!”
Mùa lễ Halloween đầu tiên tôi chẳng biết là lễ gì, vào lớp thấy ai cũng hóa trang lạ mắt, cô cũng thành bà tiên răng “tooth fairy” máy hình khi ấy tôi cũng đã mua, nhưng quý lắm không mang theo, nhờ ai tôi không nhớ mà tôi có được tấm hình này với cô.
Một góc phòng thực tập, được trang bị y như văn phòng nha thật sự, từ dụng cụ đến tất cả các dược liệu thuốc men cần thiết, chương trình học 6 tháng, được cô giáo gởi đi thực tập tại các phòng mạch trong vùng 3 tháng, các nha sĩ chấm điểm cho học trò đến thực tập – có ngày cô giáo bất ngờ ghé thăm học trò làm việc ra sao? Tôi nhất định xin thực tập trong văn phòng của nha sĩ người bản xứ, tôi muốn hòa vào đời sống mới không tìm văn phòng nha sĩ Việt Nam, vì đã lỡ chịu khó khặn phải theo con đường khó khăn, tôi có bao nhiêu kỷ niệm cười ra nước mắt, nhưng điều đọng lại trong tôi lúc này là cô Linda Vidal, người dạy tôi bước đi đầu tiên trên con đường sống mới. Tôi gởi thiệp Giáng Sinh mỗi năm đến cô, kể cho nghe về đời sống của tôi, những bằng cấp tôi nhận được sau chứng chỉ đầu tiên được học trong lớp của cô, cô rất tự hào tôi là học sinh đầu tiên đã nhận bằng của tiểu bang California sau chương trình học, các học sinh khác lơ là không quyết chí, chỉ làm được việc sai vặt trong văn phòng. Cô em Việt Nam học chung với tôi, 10 năm sau mới tìm tôi mượn sách học thi lấy bằng của tiểu bang, lý do em lấy chồng có con, chấp nhận làm việc nhẹ cho một văn phòng bác sĩ Việt Nam. Vì văn phòng bác sĩ bản xứ họ đòi bằng cấp cao hơn.
Tôi nhớ cô Linda Vidal – tôi tri ân ngôi trường đã cho tôi nghề nghiệp tôi yêu thích, nhớ từng văn phòng nhận tôi thực tập, lý do tôi nhận một em đang học trong trường C.C.Ọ. C. đến thực tập tại văn phòng của tôi. Tôi cho em tất cả kinh nghiệm tôi gom góp trong 20 năm dài, từ điều nhỏ nhặt nhất đến điều quan trọng nhất, trên tất cả là đặt tấm lòng vào việc mình làm như cô giáo đầu tiên Linda Vidal của tôi.
Tôi nhớ – tôi kính – tôi tri ân cô cho dù năm tháng trôi đi, cho dù thời gian thay đổi. Cô đã mất cách đây vài năm vì ung thư – lý do tôi không còn nhận được thiệp Giáng Sinh cô gởi nữa.
Rest In Peace, Mrs Vidal. I love you.
Em thích đọc câu chuyện của chị. Nó kể lại sự phấn đấu không ngừng và sự thông minh đã giúp chị trong cuộc sống nơi đất người xa lạ.
ThíchThích